Gần đây tôi mới đọc một báo cáo trong cuốn Lịch sử ngành giải phẫu lồng ngực. Do mang đặc trưng thường thấy của các tập san y học nên những bài viết trong đó khá khô khan. Báo cáo kể lại câu chuyện kinh hoàng xảy ra tại một thị trấn nhỏ của nước Áo trên dãy núi Alps. Vợ chồng nọ cùng cô con gái ba tuổi xinh xắn của mình đang dạo bước trong khu rừng, bỗng nhiên, họ mất dấu đứa bé và mọi chuyện bắt đầu từ đây. Cô bé đã bị rơi xuống một cái hồ cá đang đóng băng. Hai vợ chồng liền nhảy xuống, nhưng họ không thấy bé đâu. Phải mất hơn ba mươi phút tìm kiếm, họ mới phát hiện con gái mình ở dưới đáy hồ. Họ nhanh chóng kéo bé ra khỏi mặt hồ rồi đưa lên bờ, sau đó bắt đầu thực hiện các thao tác theo hướng dẫn của đội cấp cứu qua điện thoại di động.
Tám phút sau, nhân viên cấp cứu có mặt và lập tức kiểm tra tình trạng của cô bé. Bé đã mất phản ứng, không có huyết áp, mất mạch và không nhịp thở. Nhiệt độ cơ thể bé là 19°C, trong khi thân nhiệt bình thường của con người sẽ ở mức 37°C. Đồng tử giãn và không phản ứng với ánh sáng. Các dấu hiệu cho thấy não đã ngừng hoạt động. Dường như cô bé đã chết.
Nhưng các nhân viên cấp cứu vẫn tiếp tục động tác hồi sức tim phổi (CPR). Một chiếc trực thăng được gọi tới để đưa bé đến bệnh viện gần nhất. Tại đây, cô bé được đưa thẳng vào phòng mổ, trong khi nhân viên cứu thương thực hiện phương pháp ép tim ngoài lồng ngực. Ê kíp phẫu thuật tức tốc gắn máy tim phổi nhân tạo vào người cô bé. Bác sĩ phẫu thuật phải cắt lớp da ở phía trong đùi bên phải và khâu một trong mấy cái ống cao su nhân tạo của máy với động mạch đùi để lấy máu ra ngoài, rồi nối một ống khác với tĩnh mạch đùi để truyền máu trở lại. Người phụ trách truyền dịch liền ấn nút khởi động, sau đó điều chỉnh nhiệt độ và lượng oxy lưu thông giữa máy với người bệnh, những ống dẫn trong suốt bắt đầu chuyển sang màu đỏ sẫm là máu của cô bé chảy qua lòng ống. Và chỉ đến lúc này họ mới ngưng phương pháp ép tim.
Cô bé đã xem như không có sự sống trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ, kể từ khi chiếc trực thăng chở bé tới bệnh viện cho đến lúc chiếc máy tim phổi nhân tạo này hoạt động. Tuy nhiên, tính đến mốc sau hai giờ theo dõi, nhiệt độ cơ thể tăng thêm khoảng 5°C và tim bắt đầu đập. Đó là bộ phận cơ thể đầu tiên hoạt động trở lại.
Tình hình cô bé trở nên tốt hơn sau sáu giờ, khi nhiệt độ cơ thể đã ở mức bình thường là 37°C. Toàn bộ ê kíp thử chuyển cô bé sang thở máy, nhưng nước hồ và các mảnh băng vỡ đã làm tổn thương nghiêm trọng tới phổi, đến mức không thể bơm oxy đi qua ống thở để đưa vào máu. Vì thế, họ quyết định chuyển sang sử dụng hệ thống hô hấp nhân tạo ECMO, một loại máy trao đổi oxy ở ngoài cơ thể. Để làm được việc này, các bác sĩ phải dùng cưa máy để mở lồng ngực, sau đó nối hệ thống dây từ máy ECMO với động mạch chủ và tim của bệnh nhân.
Sau khi quyết định sử dụng máy ECMO, các bác sĩ lập tức tiến hành gỡ hệ thống ống của máy tim phổi nhân tạo ra khỏi người bệnh nhân. Họ hồi phục các mạch máu, khâu lại vết rạch trên đùi, rồi đưa bé vào khu chăm sóc đặc biệt với lồng ngực đang mở và được che bằng một miếng nhựa vô trùng. Cả ngày lẫn đêm, các nhân viên y tế tiếp tục dùng ống nội soi phế quản hút dịch và chất bẩn từ hai lá phổi của bé. Ngày hôm sau, phổi bệnh nhân đã phục hồi đáng kể, đủ điều kiện để chuyển bé sang thở máy thay cho hệ thống ECMO. Muốn vậy, các nhân viên y tế phải đưa bé trở lại phòng mổ để gỡ các loại dây ống, khâu các vết mổ và đóng lồng ngực lại.
Hai ngày sau, tất cả các cơ quan chức năng như: gan, thận, ruột của bé đã phục hồi, mọi cơ quan khác nhưng não bộ thì chưa. Kết quả chụp CT cho thấy toàn bộ não bị sưng phồng, dấu hiệu cho thấy bệnh nhân bị tổn thương nghiêm trọng trên diện rộng, nhưng thật may mắn khi chưa có vùng não nào đã thực sự chết. Cả ê kíp bắt tay thực hiện các bước tiếp theo. Họ khoan một lỗ vào sọ, luồn một ống dò vào trong não để theo dõi áp suất và giữ cho áp suất não được kiểm soát chặt chẽ bằng việc điều chỉnh liên tục lượng thuốc và dịch truyền vào người cô bé. Suốt hơn một tuần, cô bé nằm trong trạng thái hôn mê. Rồi, từng chút một, cô đã tỉnh lại.
Đầu tiên, đồng tử của cô bé bắt đầu có phản xạ với ánh sáng. Sau đó, cô bắt đầu tự thở. Và, vào một ngày, cô bé đơn giản là tỉnh dậy. Hai tuần sau tai nạn, cô được xuất viện về nhà. Chân phải và tay trái của cô bị liệt một phần. Giọng nói của cô khản đặc và khó nghe. Tuy nhiên, cô bé tiếp tục được điều trị ngoại trú chuyên sâu. Khi lên năm tuổi, tất cả các cơ quan chức năng của bé đã hoàn toàn phục hồi. Các đợt kiểm tra vật lý trị liệu và thần kinh đều cho kết quả bình thường. Cô bé lại giống như bao bạn bè cùng trang lứa khác.
Câu chuyện trong báo cáo khiến người đọc không khỏi kinh ngạc. Họ không ngạc nhiên vì khả năng cứu người ra khỏi trạng thái tưởng như đã chết chỉ sau hai giờ đồng hồ, mà quan trọng hơn là vì toàn bộ ê kíp điều trị đã hoàn thành những công việc cực kỳ khó khăn chỉ trong một thời gian ngắn. Việc cứu sống một nạn nhân bị chết đuối không giống như những gì mà chúng ta thường thấy trên truyền hình. Không phải chỉ với vài động tác ép tim ngoài lồng ngực, hô hấp bằng miệng là có thể giúp nạn nhân đang bị nước ngập phổi, ngưng thở sẽ mau chóng ho sù sụ rồi miệng phì phì nước và sống trở lại. Trong thực tế, để cứu sống cô bé này, cả ê kíp đã thực hiện rất nhiều công việc một cách chuẩn xác, như: nối hệ thống máy trợ tim vào người mà không để lọt bong bóng khí; đảm bảo các vết mổ, lồng ngực đang mở và dịch não phải được vô trùng tuyệt đối; bên cạnh đó phải đảm bảo cho hệ thống máy móc hoạt động liên tục. Thực hiện hoàn hảo một thao tác đã khó, phối hợp chúng lại với nhau theo một trình tự hợp lý mà không bỏ sót một chi tiết nào còn khó hơn gấp bội phần. Đó là chưa kể họ luôn phải dự phòng những sự cố bất ngờ có thể xảy ra.
Tuy nhiên, rất có thể khi nạn nhân nào đó bị rơi vào tình huống trên sẽ không cứu sống được chỉ vì những lý do như: máy móc bị hư, đội cứu thương không thể đến kịp lúc, hay có ai đó quên rửa tay gây nhiễm trùng cho bệnh nhân. Những trường hợp như thế vẫn thường xảy ra dù chúng không được nhắc đến trong cuốn Lịch sử ngành giải phẫu lồng ngực.
Bản thân tôi luôn cho rằng chúng ta thật ngây thơ khi quá mong chờ vào điều kỳ diệu của thuốc, như penicillin chẳng hạn. Khi Alexander Fleming phát minh ra loại thuốc kháng sinh này vào năm 1928, con người đã có một cái nhìn đầy lạc quan đối với việc chăm sóc y tế và phương thức điều trị bệnh. Chúng ta luôn nghĩ, chỉ cần uống một viên thuốc hoặc tiêm một liều thuốc sẽ giúp chấm dứt không chỉ một mà rất nhiều loại bệnh tật khác trong cơ thể. Kể từ đó, penicillin dường như rất hiệu quả trong việc chữa trị những căn bệnh lây nhiễm mà trước đây y học tưởng như phải bó tay. Nếu thế, tại sao không có loại thuốc tương tự để chữa trị căn bệnh ung thư hoặc giúp cho các vết bỏng biến mất, hay có thể đẩy lùi bệnh tim và đột quỵ?
Thực tế cho thấy, thuốc không kỳ diệu như mọi người vẫn nghĩ, bởi sau hơn một thế kỷ tìm tòi, con người đã nhận ra rằng hầu hết các loại bệnh tật đều có đặc thù riêng và rất khó chữa trị. Sự thực là ngay cả các bác sĩ chuyên khoa truyền nhiễm thường dùng penicillin trong việc điều trị cũng phải thừa nhận điều này: không phải tất cả các loại vi khuẩn đều dễ dàng bị tiêu diệt và chúng kháng thuốc rất nhanh. Trong y học hiện đại, việc điều trị bệnh truyền nhiễm đòi hỏi phải có các biện pháp rất đặc biệt, và đôi khi phải kết hợp nhiều liệu pháp với nhau. Trước khi quyết định phương pháp điều trị, các bác sĩ phải dựa vào đặc tính kháng thuốc của mỗi loại vi khuẩn, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, và bộ phận cơ thể nào bị viêm nhiễm. Dường như phương thức điều trị của y học hiện đại không giống như cách người ta đã từng sử dụng penicillin, nó giống cách cứu cô bé sắp chết đuối trong câu chuyện phía trên hơn. Y học ngày nay đang trở thành nghệ thuật xử lý những tình huống phức tạp, mà đúng hơn là cuộc thử nghiệm liệu con người có khả năng làm chủ được những khó khăn, phức tạp ấy hay không.
Trong ấn bản số 9 về Các loại bệnh tật, hội chứng và vết thương do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phân loại đã lên đến con số mười ba ngàn. Cụ thể hơn, con người có nguy cơ mắc ngần ấy thứ bệnh khác nhau. Trong đó, hầu hết các loại bệnh đều đã được khoa học tìm ra những phương thức chữa trị đa dạng và hiệu quả. Nhưng nếu chưa có cách chữa trị dứt điểm thì chúng ta cũng có thể làm giảm những tác hại và sự đau đớn do bệnh tật gây ra đối với con người. Tuy nhiên, mỗi trường hợp đều phải thực hiện các bước điều trị khác nhau mà mỗi bước ấy cũng không hề đơn giản hay nhẹ nhàng đối với người bệnh. Mặc dù ngày nay các bác sĩ được quyền sử dụng khoảng sáu ngàn loại thuốc để kê toa cộng thêm khoảng bốn ngàn quy trình điều trị nội khoa lẫn ngoại khoa, nhưng họ luôn phải tính đến sự nguy hiểm và cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định sử dụng một loại thuốc hay một phương thức được phép. Nếu muốn mọi thứ suôn sẻ, dễ chịu, thì ngành y và các nhà khoa học còn nhiều điều phải làm.
Một trung tâm y tế cộng đồng ở quảng trường Kenmore tại Boston đã liên kết với bệnh viện nơi tôi đang làm việc. Từ “trung tâm y tế” nghe có vẻ nhỏ bé, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Trung tâm có tên là Harvard Vanguard, được thành lập từ năm 1969 nhằm hướng đến mục tiêu cung cấp đầy đủ các dịch vụ điều trị ngoại trú cho tất cả bệnh nhân có nhu cầu. Những người thành lập trung tâm đã cố gắng theo đuổi mục tiêu đó, tuy nhiên, việc thực hiện cũng không hề dễ dàng. Trước sự phát triển bùng nổ của y học và nhu cầu của xã hội, Harvard Vanguard đã xây thêm hơn hai mươi cơ sở và tuyển thêm sáu trăm bác sĩ cùng một ngàn chuyên gia y tế để đảm nhiệm năm mươi lăm lĩnh vực chuyên môn, trong đó có nhiều lĩnh vực mới được thành lập sau này. Tại tầng năm, trong khoảng năm mươi bước từ cửa thang máy đến phòng phẫu thuật đa khoa là văn phòng của các khoa, phòng: nội tổng quát, nội tiết, di truyền học, phẫu thuật tay, thí nghiệm, thận, mắt, chỉnh hình, X-quang và tiết niệu. Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là khu vực tiền sảnh.
Do khối lượng công việc quá nhiều nên bắt buộc chúng tôi phải phân công nhiệm vụ theo từng mảng chuyên môn để dễ bề xử lý. Dù vậy, áp lực từ công việc vẫn nặng nề và luôn trở nên quá tải. Và để chứng minh cho việc này, tôi có thể lấy công việc của mình trong một ca trực ở khoa phẫu thuật tổng quát làm ví dụ. Đầu tiên, tầng dành riêng cho các sản phụ yêu cầu tôi đến khám cho một phụ nữ hai mươi lăm tuổi đang bị đau bụng dưới phía bên phải dữ dội, kèm theo đó là dấu hiệu sốt và buồn nôn. Đây là những triệu chứng của bệnh viêm ruột thừa, nhưng cô ấy đang mang thai và việc chụp CT để kiểm tra sẽ gây ra nguy hiểm cho thai nhi. Kế tiếp, một bác sĩ chuyên về ung thư phụ khoa gọi tôi đến phòng mổ. Ở đấy đang có một bệnh nhân vừa mới được cắt bỏ khối ung thư buồng trứng nhưng lại được phát hiện ra khối ung thư này là di căn từ ung thư tuyến tụy và vị đồng nghiệp muốn tôi kiểm tra tuyến tụy của bệnh nhân đồng thời quyết định xem có nên tiến hành sinh thiết hay không. Một bác sĩ ở bệnh viện gần đó gọi điện thoại yêu cầu chúng tôi tiếp nhận một bệnh nhân ung thư vào khu săn sóc đặc biệt vì khối u của người này đã phát triển lớn dẫn đến nghẽn thận, ruột và gây chảy máu nhưng không cầm được. Ca bệnh tiếp theo là của một ông sáu mươi mốt tuổi bị viêm ruột kết, căn bệnh viêm túi thừa trong ruột già cấp tính và ngày càng nặng hơn dù đã sử dụng thuốc kháng sinh ba ngày liền. Có một chi tiết quan trọng cần lưu ý, đó là trước đây ông này đã bị từ chối phẫu thuật hông vì đang mắc bệnh viêm phổi nặng, nên sức khỏe không đáp ứng được cho ca mổ. Nhưng với tình hình hiện tại, phẫu thuật có lẽ là biện pháp duy nhất. Lại thêm một trường hợp khác, một ông năm mươi hai tuổi mắc bệnh tiểu đường, bệnh động mạch vành, huyết áp cao, suy thận mãn tính, béo phì nặng, đột quỵ và giờ lại bị thoát vị bẹn. Tiếp đến là ca bệnh của một phụ nữ trẻ nhưng bị áp xe trực tràng và cần được tiến hành giải phẫu ngay.
Như các bạn đã thấy ở ví dụ trên, chỉ trong một ca trực mà tôi có đến sáu bệnh nhân với những loại bệnh không giống nhau và kèm theo đó là hai mươi sáu chẩn đoán khác nữa. Nếu phải đương đầu với những tình huống phức tạp ấy, tôi có thể khảng định bất kỳ ai cũng sẽ tin rằng hông một công việc nào có thể phức tạp hơn. Nhưng trong nghề y thì không chỉ mình tôi mà gần như ai cũng gặp phải những khó khăn tương tự. Tôi đã tìm hiểu những người làm ở bộ phận lưu trữ hồ sơ bệnh án tại Harvard Vanguard xem hệ thống điện tử có thể cho biết trung bình trong năm một bác sĩ phải xử lý bao nhiêu loại bệnh tật khác nhau. Và câu trả lời khiến tôi thật sự kinh ngạc. Chưa kể công việc khám bệnh hàng ngày tại bệnh viện, trong vòng một năm làm việc tại phòng trực, trung bình một bác sĩ điều trị phải tiến hành đánh giá khoảng 250 trường hợp bệnh tật khác nhau. Đó là chưa kể việc bệnh nhân còn có thể gặp thêm khoảng chín trăm vấn đề sức khỏe khác cũng cần được quan tâm. Số liệu thống kê trên cũng thể hiện, trung bình mỗi bác sĩ kê toa khoảng ba trăm loại thuốc, yêu cầu hơn một trăm loại xét nghiệm khác nhau, đồng thời thực hiện khoảng bốn mươi loại quy trình khám chữa bệnh từ tiêm ngừa cho đến phẫu thuật chỉnh hình.
Và thực tế là, các số liệu ghi lại công việc hàng ngày tại bệnh viện cũng chưa thể thống kê hết mọi căn bệnh. Một trong những chẩn đoán mà các bác sĩ thường ghi chú là “Bệnh khác”. Vì khi bạn quá bận rộn, còn bệnh nhân đang đau đớn ngồi đợi đến lượt khám, bạn có thể không đủ thời gian để nhập dữ liệu nhằm có kết quả chẩn đoán chính xác. Nhưng ngay cả lúc bạn có thời gian đi chăng nữa, đôi khi bạn vẫn không tìm thấy dữ liệu nào liên quan đến căn bệnh mà bệnh nhân của bạn đang mắc phải được lưu trong hệ thống máy tính.
Trong những năm gần đây, phần mềm sử dụng cho việc lưu trữ điện tử tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ đã không thể ghi lại tất cả các loại bệnh được phát hiện và phân loại. Có lần, tôi khám cho một bệnh nhân bị u thần kinh ganglioneuroblastoma (một loại u ở tuyến thượng thận hiếm gặp) và một người khác mắc bệnh di truyền, hội chứng Li-Fraumeni, nó khiến cho tất cả các bộ phận trong cơ thể của bệnh nhân đều bị bệnh ung thư. Cả hai loại bệnh này đều không có dữ liệu trong phần mềm lưu trữ. Và lúc ấy tôi chỉ biết ghi chú là “Bệnh khác”. Hầu như mỗi tuần các nhà khoa học đều cập nhật những phát hiện mới về bệnh di truyền, các kiểu biến chứng của bệnh ung thư và cách chẩn đoán, chưa kể đến nhiều phương pháp điều trị mới. Những dẫn chứng trên đã phần nào chứng minh rằng công việc của ngành y ngày càng phức tạp, đến mức ngay cả máy tính cũng không theo kịp.
Tuy nhiên, không chỉ có khối lượng và quy mô kiến thức khiến cho y học trở nên phức tạp, mà ngay cả việc áp dụng chúng vào thực tế cũng rắc rối không kém. Thực tế cho thấy, nhiệm vụ của các nhân viên y tế tại bệnh viện là cực kỳ khó khăn. Và công việc tại khu săn sóc đặc biệt, nơi cô bé sắp chết đuối đã trải qua hầu hết thời kỳ phục hồi của mình là một ví dụ điển hình.
Thuật ngữ săn sóc đặc biệt dường như có vẻ khó hiểu. Nhiều chuyên gia trong ngành thích sử dụng cụm từ cấp cứu, nhưng cách gọi như thế vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Còn thuật ngữ hỗ trợ sự sống nghe gần gũi với chúng ta hơn nhưng lại không mấy liên quan đến lĩnh vực y tế. Trong cuộc sống hàng ngày, con người có thể gặp phải những nguy hiểm đáng sợ như: một phần cơ thể bị dập nát hay do hậu quả của cháy, nổ, bị đứt động mạch chủ hay thoát vị ruột, bị đau tim dồn dập hay bệnh truyền nhiễm hoành hành. Nếu như trước đây những ai mắc các bệnh này đều không thể qua khỏi, thì hiện nay việc cứu sống họ đã trở nên dễ dàng hơn. Điều này có được là nhờ một phần đáng kể vào sự hỗ trợ đắc lực của những trang thiết bị y tế hiện đại ở các khu săn sóc đặc biệt. Điển hình là sự phát triển các công nghệ tiên tiến như: máy hô hấp hay ống mở khí quản khi phổi bị suy giảm chức năng, máy thông động mạch chủ bằng bơm bóng khi tim ngừng đập, máy thấm tách máu trong trường hợp thận không làm việc. Nếu bạn bất tỉnh và không thể ăn, bác sĩ sẽ dùng ống silicon để đưa thực phẩm chức năng vào dạ dày hay ruột của bạn. Và nếu ruột của bạn cũng bị tổn thương nặng, các loại dung dịch axit amin, axit béo và đường glucose sẽ được tiêm thẳng vào mạch máu.
Qua các số liệu báo cáo cho thấy, chỉ tính riêng một ngày trên toàn nước Mỹ đã có đến chín mươi ngàn người được tiếp nhận vào các khu chăm sóc đặc biệt (Intensive Care Unit - ICU). Trong một năm, con số này ước tính lên đến năm triệu người và phần lớn số người trong chúng ta cũng đã hoặc sẽ một lần ở trong đó. Bởi đa phần những hoạt động quan trọng của bệnh viện đều diễn ra trong khu chăm sóc đặc biệt nên điều này đã đưa đến một khẳng định rằng, những thành quả của y học ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống dịch vụ mà các khu ICU cung cấp, như: chăm sóc trẻ sinh non; chăm sóc nạn nhân bị thương, đột quỵ, và đau tim; chăm sóc bệnh nhân phẫu thuật não, tim, phổi hay các mạch máu chính. Năm mươi năm trước có rất ít các khu ICU, nhưng bây giờ, bất cứ khi nào ghé thăm bệnh viện nơi tôi làm việc, bạn sẽ nhận ra luôn có khoảng 155 trong tổng số 700 bệnh nhân của bệnh viện đang được điều trị tại khu chăm sóc đặc biệt. Tính trung bình, mỗi bệnh nhân điều trị ở đó bốn ngày và khả năng qua khỏi là khoảng 86%. Nếu bạn đang gặp nguy hiểm đến tính mạng, nhưng khi được tiếp nhận vào khu ICU và sau đó được các nhân viên y tế gắn máy hô hấp vào người với nhiều ống xung quanh thì bạn có thể hy vọng. Nhưng đó cũng sẽ là những ngày mà cuộc sống của bạn trở nên mong manh nhất.
Gần đây, nhóm nhà khoa học người Israel công bố một nghiên cứu, trong đó họ quan sát hoạt động chăm sóc bệnh nhân tại các khu ICU trong vòng hai mươi bốn giờ liên tục. Họ nhận thấy, trung bình một ngày, một bệnh nhân cần được thực hiện 178 thao tác riêng lẻ, từ việc phát thuốc uống cho đến hút chất bẩn từ phổi, và mỗi thao tác như vậy đều mang trong nó những nguy hiểm cho chính bệnh nhân. Điều đáng chú ý là nhóm nhà khoa học nhận thấy các nhân viên y tế chỉ mắc lỗi khoảng 1% trong tổng số các thao tác đã thực hiện, và như thế đồng nghĩa với việc các bác sĩ, đã mắc trung bình khoảng 2 lỗi trong một ngày đối với một bệnh nhân. Trong khi đó, việc điều trị tại khu ICU chỉ thành công khi số nhân viên y tế làm tốt nhiệm vụ nhiều hơn hẳn số người mắc lỗi. Nhưng điều này quả là rất khó, bởi ngay cả khi bệnh nhân chỉ nằm bất động trên giường vài ngày thì vẫn có thể gây ra nguy hiểm. Vậy chuyện gì đã xảy ra? Câu trả lời nằm ở chỗ: khi ấy các cơ bắp bị teo lại, xương nhũn ra, nhiều chỗ bị loét và mạch máu thì bắt đầu đóng cục. Nếu vậy bạn phải duỗi thẳng và xoa bóp các chi đang mềm nhũn của bệnh nhân mỗi ngày để tránh bị co cứng, kế tiếp bạn phải tiêm chất chống máu đóng cục ít nhất hai lần một ngày, trở mình bệnh nhân sau vài giờ, tắm cho họ và thay khăn trải giường mà không làm hỏng các ống hay dây dẫn, chải răng cho họ hai lần một ngày để phòng ngừa viêm phổi do vi khuẩn tích tụ trong miệng. Sau đó bạn phải sử dụng máy hô hấp, máy thấm tách máu và chăm sóc các vết thương đang để hở. Khó khăn chồng chất khó khăn.
Câu chuyện về Anthony DeFilippo - bệnh nhân của tôi, là một ví dụ. Anh ấy đã bốn mươi tám tuổi, làm nghề lái xe limousine tại thành phố Everett, tiểu Masachusetts. DeFilippo bị xuất huyết trong ca phẫu thuật sa ruột và sỏi mật tại một bệnh viện công. Các bác sĩ phẫu thuật đã cầm được máu, tuy nhiên gan của DeFilippo lại bị tổn thương nghiêm trọng. Vài ngày sau, anh ấy trở nên yếu đi nhưng các thiết bị tại đó không thể hỗ trợ gì thêm. Sau khi được đề nghị, tôi đồng ý cho DeFilippo chuyển đến bệnh viện nơi tôi đang làm việc nhằm giữ cho anh ấy ổn định và tính toán phương án điều trị tiếp theo. 1 giờ 30 phút sáng chủ nhât, bệnh nhân được chuyển đến khu ICU với mái tóc bờm xờm, trán đẫm mồ hôi, toàn thân run rẩy và nhịp tim ở mức 114 lần/phút. DeFilippo nói mê sảng vì sốt, thể trạng trở nên cực kỳ yếu và khó thở.
“Để tôi đi! Hãy để cho tôi đi!”. Anh ấy vừa la hét vừa khóc lóc trong khi luôn cào xé tấm áo choàng, mặt nạ dưỡng khí và bộ trang phục quấn quanh vùng bụng bị thương.
Một điều dưỡng đã trấn an: “Tony, mọi chuyện sẽ ổn thôi mà. Anh đang ở trong bệnh viện và chúng tôi sẽ giúp anh”.
Anh ta là một gã to con liền xô ngã cô điều dưỡng và cố vùng ra khỏi giường. Chúng tôi liền giữ chặt tay anh ấy, cho thở khí oxy và tiếp tục trấn an. Rốt cuộc, DeFilippo cũng không còn sức để vùng vẫy và chịu để cho chúng tôi lấy máu đi xét nghiệm, sau đó tiêm một liều kháng sinh.
Các kết quả xét nghiệm cho thấy DeFilippo bị suy gan và bạch cầu tăng đột biến, và đây là các dấu hiệu của việc bị nhiễm trùng. Đồng thời với đó là bàng quang rỗng chứng tỏ bệnh nhân cũng bị suy thận. Sau đó vài giờ, anh ấy có những triệu chứng nguy hiểm như: tụt huyết áp, khó thở hơn và có chiều hướng chuyển từ trạng thái mơ màng sang gần như bất tỉnh. Tất cả các bộ phận trên cơ thể DeFilippo, kể cả bộ não, bắt đầu lịm dần.
Tôi liền gọi điện báo tình hình cho chị gái của DeFilippo bởi hiện tại cô là người thân gần gũi nhất của bệnh nhân, và nhận được lời đề nghị khẩn thiết: “Bác sĩ hãy làm tất cả những gì có thể để cứu sống anh ấy”.
Sau cuộc gọi, chúng tôi tiến hành các công việc ngay lập tức. Đầu tiên, DeFilippo được tiêm thuốc mê. Một bác sĩ thực tập đưa ống thở vào cổ họng bệnh nhân, trong khi bác sĩ thực tập khác bắt đầu gắn các loại dây vào người anh ấy. Cô luồn cây kim mỏng dài khoảng 5cm và ống thông qua cổ tay phải đang lật ngửa rồi chích thẳng vào động mạch quay, sau đó nhẹ nhàng khâu đường dây với da. Tiếp đến, cô lại đưa ống chích dài hơn một gang tay vào tĩnh mạch cảnh bên phía trái cổ. Sau khi khâu đường dây thứ hai vào đúng vị trí, và lúc tia X định vị điểm tiếp theo, phía bên trong tĩnh mạch chủ ngay đường vào tim, cô tiếp tục đưa cái dây thứ ba, dài hơn một chút, dùng để thấm tách máu, qua ngực trên bên phải vào thẳng tĩnh mạch dưới xương đòn.
Ngay sau đó, bệnh nhân được nối ống thở với máy hô hấp và cài đặt nhịp thở với tần số 14 lần/phút, 100% oxy. Kế tiếp, ê kíp điều chỉnh lực thở và khí, họ thao tác hệt như các kỹ sư làm việc với bảng điều khiển, cho đến khi DeFilippo đạt được nồng độ oxy và CO2 trong máu như mong muốn. Chúng tôi theo dõi các số đo huyết áp biến động liên tục, và dựa vào đây để điều chỉnh lượng thuốc tiêm vào người bệnh nhân nhằm điều chỉnh mức huyết áp cần thiết. Còn lượng dịch truyền vào tĩnh mạch thì được điều chỉnh theo số đo áp suất từ dòng tĩnh mạch cảnh. Cuối cùng là dòng tĩnh mạch dưới xương đòn nối bệnh nhân với máy thấm tách máu, và cứ vài phút toàn bộ máu của bệnh nhân được lọc qua máy chạy thận nhân tạo rồi quay lại cơ thể. Bằng cách điều chỉnh những chỉ số thông qua các máy được gắn vào bệnh nhân, chúng tôi có thể thay đổi nồng độ potassium, bicarbonate và muối trong người họ. Và dường như chúng tôi có thể xử lý các tình huống một cách dễ dàng.
Nhưng thực tế lại hoàn toàn khác, bởi việc cấp cứu bệnh nhân không đơn giản như chúng ta leo lên một chiếc ô tô, cầm vô lăng rồi cứ thế chạy, mà chuyện này giống như bạn đang trên một chiếc xe có 18 bánh và nó đang lồng lộn như sắp lao xuống vực. Với trường hợp của DeFilippo, để giữ cho huyết áp của anh ấy ở mức bình thường, chúng tôi phải truyền đạm vào tĩnh mạch liên tục và sử dụng nhiều loại thuốc. Bệnh nhân được thở máy gần như tối đa. Nhiệt độ cơ thể đã lên đến 40°C. Theo một số liệu thống kê cho thấy, chưa đến 5% số bệnh nhân như trong tình trạng của DeFilippo có thể qua khỏi. Và vì thế, chỉ cần một sơ suất nhỏ của ê kíp thì có thể xóa tan mọi cơ hội, dù chỉ là mong manh nhất.
Tuy nhiên, sau mười ngày điều trị, tình hình của DeFilippo đã có những tiến triển rõ rệt. Vấn đề chủ yếu của anh ấy lúc này là gan bị tổn thương từ đợt phẫu thuật trước đó: ống dẫn chính từ gan bị đứt làm cho mật chảy ra gây tình trạng ăn mòn, và mật làm tiêu mỡ trong thức ăn của người bệnh khiến bệnh nhân bị suy nhược từ bên trong. Do hiện tại DeFilippo quá yếu nên ê kíp không thể tiến hành phẫu thuật ngay được. Vì vậy, ngay sau khi giúp anh ấy ổn định trở lại, chúng tôi quyết định thực hiện một phương án tạm thời, đó là, bằng cách sử dụng hệ thống thiết bị chụp CT, các bác sĩ đặt ống dẫn lưu bằng nhựa xuyên qua thành bụng đi vào ống mật bị đứt để rút mật chảy ra ngoài. Ngay sau đó, chúng tôi phát hiện số lượng mật chảy ra quá nhiều, đến mức phải sử dụng thêm ba cái ống dẫn lưu nữa: một cái đặt trong ống mật và hai cái xung quanh đó. Khi mật được rút hết ra ngoài thì bệnh nhân bắt đầu bớt sốt. Nhu cầu oxy và đạm cũng giảm, huyết áp đã trở về mức bình thường. DeFilippo bắt đầu hồi phục. Tuy nhiên, đến ngày thứ mười một, khi chuẩn bị cho bệnh nhân dừng thở máy, thì anh ấy lại sốt cao, huyết áp giảm và nồng độ oxy trong máu lại tụt. Lúc này da anh ấy lạnh ngắt và thỉnh thoảng xuất hiện những cơn rùng mình ớn lạnh.
Tất cả chúng tôi không thể hiểu chuyện gì đã xảy ra. Có thể DeFilippo bị nhiễm trùng, nhưng kết quả chụp X-quang và CT lại không thể cho biết anh ấy bị nhiễm trùng từ đâu. Mặc dù được tiêm thêm bốn liều kháng sinh, nhưng bệnh nhân vẫn tiếp tục sốt. Trong khi sốt, nhịp tim anh ấy trở nên rối loạn. Y tá nhấn nút báo động xanh dùng trong trường hợp khẩn cấp. Ngay tức thì, các bác sĩ, y tá lao đến và nhanh tay thực hiện hô hấp bằng phương pháp kích điện. Tim bệnh nhân đập trở lại. Phải hơn hai ngày sau chúng tôi mới biết được chuyện gì đã xảy ra với DeFilippo. Sau khi nghĩ đến khả năng là một trong các đường dây nối vào người bệnh nhân đã bị nhiễm trùng, chúng tôi liền thay bằng các đường dây mới và đưa dây cũ đi cấy vi sinh. Bốn mươi tám tiếng sau, chúng tôi có câu trả lời chính xác. Và đúng như nhận định ban đầu, tất cả các đường dây đều đã bị nhiễm trùng. Nguyên nhân có thể xuất phát từ một dây nào đó bị nhiễm khuẩn rồi lan ra các dây khác theo đường máu trong lúc gắn chúng vào người bệnh. Kết quả là bệnh nhân bị nhiễm trùng, bị sốt và suy yếu nhanh.
Ví dụ trên đây phản ánh thực tế công việc tại khu chăm sóc đặc biệt: giống như việc cứu người, bất kỳ lúc nào chúng ta cũng có thể gây ra sai sót. Trong quá trình điều trị, việc nhiễm trùng đường dây phổ biến đến mức những người trong ngành y xem đó là những rắc rối thường ngày. Một thống kê cho biết, các khu ICU trên toàn nước Mỹ mỗi năm gắn khoảng năm triệu các loại dây vào người bệnh nhân, và trung bình có khoảng 4% trong số đó bị nhiễm trùng sau mười ngày. Như vậy, một năm có khoảng 8.000 người bị nhiễm trùng đường dây, và thống kê cũng cho thấy, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe ban đầu mà có khoảng từ 5 đến 28% trong số 8.000 người bị nhiễm khuẩn đó sẽ không qua khỏi. Và những người qua khỏi cũng phải mất trung bình hơn một tuần nằm trong khu chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một trong nhiều rủi ro mà họ gặp phải. Cũng tại Mỹ, một số liệu thống kê khác cho thấy, sau mười ngày sử dụng ống thông tiết niệu tại khu ICU, có khoảng 4% bệnh nhân bị nhiễm trùng bàng quang; hay sau mười ngày thở máy, khoảng 6% sẽ bị viêm phổi do nhiễm khuẩn, và nó là nguyên nhân gây nên cái chết cho khoảng 40 đến 45% người trong số đó. Nói chung, khoảng 1/2 số bệnh nhân điều trị ở khu ICU sẽ gặp phải một rắc rối nghiêm trọng nào đấy, và khi điều đó xảy ra, cơ hội sống sót giảm đi đáng kể.
Trở lại câu chuyện của bệnh nhân DeFilippo, qua tuần sau anh ấy phục hồi đủ để ngưng thở máy và xuất viện hai tháng sau đó. Nhưng do sức khỏe không được như trước nên anh ấy đã không thể giữ được công việc cũ và phải bán nhà để trả nợ. Cuối cùng DeFilippo đành phải chuyển đến sống cùng chị gái. Cái ống rút mật vẫn còn lòng thòng bên bụng anh ấy. Dự định khi DeFilippo khỏe mạnh hơn, tôi sẽ phẫu thuật làm lại ống mật chủ cho gan, nhưng anh ấy đã tự phục hồi và qua khỏi. Trong số những người từng bị như DeFilippo, tôi chưa thấy ai may mắn như vậy.
Và giờ đây, bài toán đặt ra cho công tác chăm sóc y tế hiện đại là: nếu bạn có một bệnh nhân đang gặp nguy hiểm, và để có cơ hội cứu anh ấy, bạn phải nắm vững kiến thức đồng thời đảm bảo thực hiện đúng 178 thao tác mà mỗi bệnh nhân cần đến, cho dù màn hình cảnh báo không hoạt động, hay bệnh nhân ở giường bên cạnh đang kêu ầm lên vì đau đớn, còn y tá đang gọi để yêu cầu trợ giúp. Giữa muôn vàn khó khăn ấy, ngay cả khi công việc đã được chia nhỏ nhưng bạn vẫn cảm thấy quá tải, bạn sẽ phải làm gì?
Câu trả lời của người trong nghề là chuyển từ chuyên môn hóa sang chuyên môn hóa cao hơn nữa. Trường hợp của bệnh nhân DeFilippo là một ví dụ, dường như tôi chỉ chăm sóc cho một mình anh ấy. Và như thế mới thực sự là một chuyên viên chăm sóc đặc biệt (là từ mà những người công tác ở các ICU thích được gọi). Là một bác sĩ phẫu thuật đa khoa, tôi luôn muốn có thể giải quyết hầu hết các trường hợp bệnh lý mà mình gặp phải. Nhưng vì công việc săn sóc điều trị ngày càng phức tạp, nên trách nhiệm đó cũng dần chuyển sang cho những người ở cấp cao hơn. Bằng chứng là trong khoảng 10 năm gần đây đã xuất hiện rất nhiều chương trình đào tạo chuyên gia cấp cứu hồi sức ở hầu hết các thành phố lớn của Mỹ và Châu Âu. Và hiện nay, một nửa các khu ICU ở Mỹ đang trông cậy vào những chuyên gia cấp cao được đào tạo từ các chương trình đó.
Có thể nói, sự am hiểu chuyên môn của đội ngũ bác sĩ sẽ quyết định đến sự thành công của y học hiện đại. Vào đầu thế kỷ hai mươi, chỉ cần tốt nghiệp cấp ba và có chứng chỉ một năm học y khoa, bất kỳ ai cũng có thể hành nghề y. Nhưng đến cuối thế kỷ, tất cả các bác sĩ phải có bằng cao đẳng, chứng chỉ y khoa bốn năm, và thêm từ ba đến bảy năm thực tập trong một lĩnh vực chuyên khoa như: nhi khoa, phẫu thuật, thần kinh hay các chuyên khoa tương tự. Tuy nhiên, bước sang những năm đầu của thế kỷ hai mươi mốt thì chừng đó thời gian chuẩn bị vẫn chưa đủ để một bác sĩ có thể ứng phó kịp thời với sự phức tạp của y học. Hiện tại, hầu hết các bác sĩ trẻ sau thời kỳ thực tập sẽ tiếp tục làm nghiên cứu sinh, nghĩa là thêm từ một đến ba năm đào tạo, ví dụ như: phẫu thuật bụng, rối loại chuyển hóa ở trẻ em, chụp X-quang vú, hay cấp cứu hồi sức. Ngày nay các bác sĩ không thể khởi nghiệp nếu chưa được chuẩn bị kỹ. Đôi khi xã hội vẫn gọi họ là bác sĩ trẻ nhưng tuổi đời của họ không còn trẻ, bởi trung bình cũng phải hơn ba mươi tuổi.
Thời đại chúng ta đang sống hội tụ nhiều chuyên gia cao cấp. Họ là những thầy thuốc đã dành nhiều thời gian miệt mài rèn luyện chỉ trong một lĩnh vực nhỏ hẹp cho đến khi họ có thể làm tốt hơn bất kỳ ai khác. Họ có hai lợi thế so với các chuyên gia bình thường, đó là sự am hiểu ch tiết vấn đề và khả năng uyên bác để có thể xử lý các tình huống phức tạp mà công việc mang đến. Tuy nhiên, sự phức tạp cũng có nhiều cấp độ, y học và những lĩnh vực khác dù đã có những bước tiến xa và ngay cả khi chúng ta đã được chuyên môn hóa cao, thì cũng khó có thể tránh được những lỗi thường ngày.
Trong y học hiện đại, có lẽ không lĩnh vực nào được chuyên môn hóa sâu như ngành giải phẫu học. Phòng mổ luôn được xem là một khu chăm sóc đặc biệt cực kỳ phức tạp. Tại đây, chúng tôi có các bác sĩ gây mê chỉ phụ trách việc giảm đau và ổn định bệnh nhân, tuy nhiên, họ lại tiếp tục được chia ra làm nhiều bộ phận khác nhau, ví dụ như: bác sĩ gây mê khoa nhi, bác sĩ gây mê khoa tim, bác sĩ gây mê khoa sản, bác sĩ gây mê khoa giải phẫu thần kinh, và nhiều khoa khác nữa. Cũng như thế, chúng tôi phân công nhiệm vụ của các “y tá phụ mổ” ra nhiều bộ phận nhỏ cho từng trường hợp cụ thể.
Tương tự, cũng có nhiều bác sĩ phẫu thuật ở các chuyên khoa khác nhau. Họ được chuyên môn hóa quá cao, đến nỗi khi đùa với nhau là có bác sĩ chuyên phẫu thuật tai phải và bác sĩ chuyên phẫu thuật tai trái, chúng tôi phải kiểm tra lại để chắc chắn điều đó là không có thật. Tôi được đào tạo để làm bác sĩ phẫu thuật đa khoa, tuy nhiên, trừ khi phải về công tác ở vùng nông thôn, còn lại chẳng bao giờ tôi phải làm như vậy. Và thực tế cũng cho thấy là bạn không thể nào làm được tất cả. Tôi quyết định mình sẽ tập trung vào chuyên khoa phẫu thuật ung thư, nhưng như thế vẫn còn quá rộng. Tuy nhiên, dù tôi đã cố gắng kiên trì theo đuổi tất cả các kỹ năng phẫu thuật đa khoa, đặc biệt là trong cấp cứu, nhưng cuối cùng tôi lại chuyên về phẫu thuật ung thư tuyến nội tiết.
Trong vài thập niên gần đây, nhờ có chuyên môn hóa mà y học đã có những cải tiến kỳ diệu trong lĩnh vực giải phẫu và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Nếu trước đây tỉ lệ tử vong hậu phẫu luôn là hai con số, ngay cả với những ca tiểu phẫu thì bệnh nhân cũng phải trải qua thời kỳ hồi phục kéo dài và thậm chí có thể bị tàn tật; thì ngày nay, rất nhiều ca phẫu thuật chỉ diễn ra trong ngày.
Cho dù ngày nay có rất nhiều ca phẫu thuật thành công, nhưng con số thương vong vẫn còn lớn. Một thống kê y khoa của Mỹ cho thấy, trung bình một người phải trải qua bảy lần phẫu thuật trong suốt cuộc đời, và như vậy các bác sĩ sẽ phải thực hiện khoảng 50.000.000 ca mổ mỗi năm. Nhưng hàng năm chúng ta vẫn có hơn 150.000 ca tử vong sau mổ, và con số này nhiều gấp ba lần số người chết do tai nạn giao thông. Nhưng vấn đề ở chỗ, các nghiên cứu đều chỉ rõ có ít nhất 1/2 số ca tử vong và các vấn đề khó khăn khác mà chúng ta gặp phải đều có thể tránh khỏi. Dù đã được trang bị kiến thức sâu bằng việc đào tạo bài bản và thực hiện chuyên môn hóa cao nhưng chúng ta vẫn còn bỏ sót nhiều thao tác. Chúng ta vẫn phạm sai lầm.
Và thực tế đã chứng minh điều đó. Bên cạnh những thành công rực rỡ, y học hiện đại cũng gặp khá nhiều thất bại. Điều này đặt ra cho chúng ta một thách thức mới: Bạn sẽ làm gì khi kinh nghiệm chuyên môn mà bạn có vẫn chưa đủ, hay ngay cả khi các chuyên gia cao cấp cũng thất bại? Vậy thì chúng ta hãy bắt đầu đi tìm câu trả lời, và bạn sẽ tìm ra giải pháp nếu bạn thực hiện một công việc như sau, dù nó không liên quan gì đến y học.
- Thêm trang cùng cấp
- Đăng nhập để gửi ý kiến