Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng.

Chương 5. Cuộc thử nghiệm đầu tiên

TTLA

     Vào cuối năm 2006, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ Geneva của một phụ nữ nói giọng Anh. Bà ấy giới thiệu mình là người của tổ chức WHO và có ý đề nghị tôi thành lập một nhóm nghiên cứu để giải quyết một vấn đề. Đó là, theo số liệu mà WHO đang có cho thấy số lượng các ca phẫu thuật trên thế giới đang có chiều hướng tăng nhanh, trong đó nhiều bệnh nhân đã không được chăm sóc y tế một cách an toàn nên có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chính vì thế mà họ muốn nghiên cứu và phát triển một chương trình toàn cầu với mục tiêu giảm thiểu số ca tử vong cũng như những mối nguy hiểm trong phẫu thuật.  
     Tôi hỏi: “Thế chị sẽ bắt đầu tiến hành chương trình này như thế nào?” 
     Bà ấy trả lời: “Chúng ta sẽ tổ chức một cuộc hội thảo”. 
     “Tổ chức sẽ chi bao nhiêu tiền cho chương trình này?” - Tôi hỏi. 
     Nhưng bà ấy nói: “Ồ, chương trình này không có kinh phí để thực hiện”. 
     Tôi từ chối không thể tham gia, vì tôi rất bận. 
     Sau khi nghe tôi từ chối, bà ấy nói: “Ồ, xin lỗi! Tôi cứ nghĩ anh là một bác sĩ chân chính. Vậy là tôi đã nhầm”. 
     Và cuối cùng, tôi đã đồng ý tham gia chương trình ấy. 
     Một trong những lợi ích khi làm việc cho WHO là bạn sẽ có được những báo cáo, số liệu trong ngành y tế từ 193 nước thành viên. Khi đọc các báo cáo về tình hình phẫu thuật trên thế giới, nhóm chúng tôi nhận thấy mối quan tâm của WHO là vô cùng đúng đắn: số ca phẫu thuật đã tăng lên rất nhanh. Vào năm 2004, có khoảng 230 triệu ca phẫu thuật nguy hiểm, trung bình cứ 25 người thì có một người phải phẫu thuật, và con số này liên tục tăng nhanh qua các năm. Có thể không mấy ai nhận ra khi số lượng ca phẫu thuật lại tăng nhanh hơn số ca sinh đẻ trên toàn thế giới, và tỷ lệ tử vong cao hơn từ 10 đến 100 lần. Mặc dù, hầu hết các ca phẫu thuật đều diễn ra  thành công, nhưng tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật lại khá cao, từ 3% đến 17%. Dù vết mổ ngày càng nhỏ hơn, quá trình phục hồi sau khi mổ nhanh hơn, nhưng rủi ro vẫn còn cao. Số liệu cho thấy, trung bình mỗi năm trên thế giới có ít nhất bảy triệu người bị tàn phế và một triệu người chết vì những nguyên nhân liên quan đến phẫu thuật, gần bằng với số người chết vì bệnh sốt rét, lao và những căn bệnh kinh điển khác. 
     Từ những con số biết nói này, tôi hiểu tại sao WHO - tổ chức chỉ quan tâm đến các vấn đề về y tế có quy mô lớn của nhân loại - bỗng nhiên lại quan tâm đến những vấn đề nhỏ và đòi hỏi công nghệ cao như phẫu thuật. Trong những thập niên vừa qua, nền kinh tế toàn cầu phát triển đã tạo điều kiện cho con người có tuổi thọ cao hơn trước. Vì thế, nhu cầu về các dịch vụ phẫu thuật thiết yếu cũng tăng để phục vụ cho những người bị bệnh ung thư, gãy xương và các vết thương khác, biến chứng trong lúc sinh đẻ, dị tật nguy hiểm ở trẻ em, chữa bệnh sỏi thận hay sỏi mật và thoát vị ruột. Mặc dù còn khoảng hai tỉ người, chủ yếu là những người sống ở nông thôn, không thể tiếp cận với bác sĩ phẫu thuật, hệ thống y tế ở các nước ngày nay đã nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều quy trình phẫu thuật hiện đại. Nhưng mức độ an toàn và chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế vẫn luôn là mối quan tâm thường trực trên khắp hành tinh.
     Vậy giờ đây chúng ta phải làm gì? Điều trị phẫu thuật đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao và phức tạp nên không dễ phổ biến như điều trị những bệnh thông thường khác, chẳng hạn như bệnh bại liệt ở trẻ em. Tôi đã cùng các bác sĩ điều trị của WHO đi nhiều nơi để giám sát chiến dịch loại trừ bệnh bại liệt, nhưng chỉ riêng việc tiêm vắc-xin phòng bệnh cũng đã gặp rất nhiều khó khăn. Phẫu thuật còn phức tạp hơn nhiều. Tìm cách giảm thiểu nguy hại trong từng phòng mổ đã rất khó, và để tiếp cận được với nó còn khó hơn nhiều. Với hơn 2.500 quy trình phẫu thuật khác nhau, từ sinh  thiết não đến thủ thuật cắt cụt ngón chân, gắn thiết bị điều hòa nhịp tim đến chiết lá lách, từ thủ thuật cắt bỏ ruột thừa đến cấy gan, thậm chí bạn còn không biết sẽ phải bắt đầu từ đâu. Tôi nghĩ, tôi chỉ có thể giúp tổ chức này tập trung vào việc làm giảm thiểu nguy hại trong một quy trình, đó là quy trình gắn đường dây trung tâm của máy hô hấp nhân tạo, nhưng đối với một chương trình quy mô như thế này không biết việc làm ấy có giúp ích gì không? 
     Tháng Giêng năm 2007, tại trụ sở chính của WHO ở Geneva, chúng tôi triệu tập một cuộc họp kéo dài hai ngày, thành phần gồm các bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê, y tá, các chuyên gia an toàn trong ngành y tế, thậm chí có cả bệnh nhân từ khắp nơi tham dự, để cùng nhau trao đổi, đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế tối đa biến chứng trong phẫu thuật. Chúng tôi đã mời đến hội thảo các bác sĩ lâm sàng của những phòng khám bệnh hàng đầu từ các nước Châu Âu, Ca-na-đa và Mỹ.  Đặc biệt, cuộc họp còn có bác sĩ phẫu thuật trưởng của Ủy ban Quốc tế, Hội Chữ thập đỏ, người đã phái các nhóm y tế đến điều trị, chăm sóc cho những người tị nạn bị bệnh và bị thương ở khắp nơi trên thế giới từ thành phố Mogadishu (Sô-ma-li) đến đất nước In-đô-nê-si-a. Đại diện phía bệnh nhân là người đến từ Dăm-bi-a, ông có cô con gái bị chết do ngạt thở vì thiếu oxy trong lúc phẫu thuật. Tại đây, sau khi mọi người chia sẻ với nhau những trải nghiệm, những phát hiện của họ trong quá trình tham gia phẫu thuật ở nhiều nơi trên thế giới, tôi bắt đầu hoài nghi: làm sao chúng tôi có thể xử lý hết các vấn đề xảy ra ở nhiều vùng khác nhau? 
     Một viên chức y tế khoảng 40 tuổi đến từ miền tây Gha-na - một vùng đất mà người dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng cây ca-cao và đào vàng. Anh kể cho chúng tôi nghe về điều kiện y tế ở bệnh viện quận nơi anh đang làm việc, và thậm chí ở đó không có một bác sĩ phẫu thuật nào muốn làm việc. Gha-na đang bị chảy máu chất xám, rất nhiều người lao động lành nghề bỏ đi các thành phố khác hoặc ra nước ngoài làm việc - nơi họ sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hơn. Anh ấy kể rằng toàn bộ bệnh viện chỉ có ba viên chức y tế - đó là các bác sĩ điều trị tổng quát chưa được đào tạo về phẫu thuật. Nhưng trong trường hợp bệnh nhân bị chảy máu sau hai ngày đau đẻ, hay sốt vì viêm ruột thừa, hoặc suy phổi sau tai nạn xe máy, các bác sĩ ở đây bắt buộc phải phẫu thuật, dù họ chưa từng được học để làm việc này. 
     Anh nói thêm: “Chúng tôi đã phải làm tất cả công việc của một bác sĩ nhi, bác sĩ khoa sản đến cả bác sĩ phẫu thuật”. Anh kể rằng chỉ có tài liệu và cẩm nang kỹ thuật giải phẫu cơ bản. Có một trợ tá giúp anh trong phẫu thuật nhưng người này cũng chỉ mới học qua ít kiến thức về gây mê căn bản. Thiết bị y tế bệnh viện nghèo nàn, trình độ chuyên môn của y, bác sĩ yếu kém nên những  sự cố trong phẫu thuật thường xảy ra. Nhưng anh ấy tin rằng tốt nhất là nên làm cái gì đó có thể cho bệnh nhân, còn hơn là không làm gì cả. 
     Một kỹ sư công nghệ sinh học người Nga kể về công việc chính của anh ấy là theo dõi quá  trình cung ứng và bảo trì thiết bị y tế cho các bệnh viện ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Và anh chia sẻ với chúng tôi về những sự cố vô cùng nguy hiểm xảy ra ở những nơi trang thiết bị còn thiếu thốn, cũng như những nơi được trang bị hiện đại. Chẳng hạn, các thiết bị phẫu thuật không được bảo trì hợp lý đã phát lửa hay điện và làm giật điện bệnh nhân; còn công nghệ mới lại không được sử dụng đúng quy trình vì đội ngũ y, bác sĩ không được đào tạo bài bản; các thiết bị cứu hộ quan trọng lại được cất kỹ trong tủ hay bị bỏ quên mà khi cần họ lại không thể tìm thấy chúng. 
     Trưởng khoa phẫu thuật của bệnh viện lớn nhất ở Mông Cổ kể lại trình trạng thiếu thuốc giảm đau. Rồi các bác sĩ khác đến từ Châu Á, Châu Mỹ và Trung Đông cũng cho biết tình trạng tương tự xảy ra ở nước họ. Nhà nghiên cứu người New Zealand thì tiết lộ về tỷ lệ tử vong cao khủng khiếp ở những nước nghèo vì gây mê không an toàn. Ông đặc biệt lưu ý rằng mặc dù một số vùng ở Châu Phi có tỷ lệ người chết vì gây mê toàn thân ít hơn 1/5000, nhưng những vùng khác thì lại cao gấp mười lần, và theo một nghiên cứu ở Tô-gô thì tỷ lệ này là 1/150. Một bác sĩ gây mê đến từ Ấn Độ xen vào, bà nói, hầu hết các bác sĩ phẫu thuật đều cho rằng nguyên nhân chính của vấn đề này là do bác sĩ gây mê. Bà nói tiếp, ở Ấn Độ, các bác sĩ phẫu thuật thường không cho bác sĩ gây mê nói, và cũng không để ý đến những vấn đề mà đồng nghiệp của họ cảnh báo. Với thực trạng là bác sĩ gây mê vốn không được xem trọng, nên khi các sinh viên y khoa nhận thấy điều này thì họ quyết định không theo học chuyên khoa gây mê. Nhưng thực tế, vấn đề quan trọng nhất của một ca phẫu thuật lại là gây mê, mà những người phụ trách công việc này lại không được đào tạo bài bản theo yêu cầu. Một y tá người Ai-len góp thêm câu chuyện khi cô nói các y tá phải làm việc trong điều kiện còn tồi tệ hơn thế. Chẳng ai xem họ là thành viên của kíp mổ, và có khi họ còn bị đuổi khỏi kíp mổ nếu nêu lên ý kiến cá nhân ngược với những người khác. Bản thân cô đã từng chứng kiến chuyện này diễn ra ở đất nước mình, và ngay cả đồng nghiệp của cô ở những nước khác cũng  vậy. Tình trạng này đã trở thành vấn đề chung của những người làm nghề y tá trên toàn thế giới. 
     Tại cuộc hội thảo, một mặt, mọi người đều nhất trí rằng: phẫu thuật có ý nghĩa rất lớn đối với mạng sống con người và cần phải phát triển rộng hơn nữa. Khi rơi vào tình trạng hiểm nghèo, chỉ có phẫu thuật mới có thể giúp cứu sống con người. Và ở nhiều nơi trên thế giới, tỷ lệ biến chứng nghiêm trọng vẫn ở mức thấp có thể chấp nhận được - từ 5% đến 15%. 
     Mặt khác, vẫn có ý kiến cho rằng tỷ lệ trên thật khó mà chấp nhận được. Vì cứ một phần trăm tương ứng với hàng triệu người bị tàn phế và tử vong. Các báo cáo cho biết, chỉ tính riêng ở Mỹ, ít nhất một nửa số ca bị biến chứng có thể ngăn ngừa được. Nhưng có nhiều nguyên nhân và  yếu tố gây ra các biến chứng. Vì thế, chúng tôi cần phải làm điều gì đó. Tuy nhiên, điều đó là gì thì chưa hình dung ra. 
     Có người đề nghị cần tổ chức thêm các chương trình tập huấn. Nhưng đó là ý tưởng khó có thể thực hiện được. Vì mỗi nước có những vấn đề khác nhau, và mỗi bệnh viện cũng thế. Không có một chương trình tập huấn nào đủ để bao quát tất cả các vấn đề ấy. Đồng thời, cũng không thể có  nguồn tài chính lẫn nhân lực để có đáp ứng được. 
     Chúng tôi thảo luận về phương pháp khuyến khích - tức là sẽ thưởng theo hiệu quả làm việc, và đây là một giải pháp mới được đưa vào thử nghiệm tại nước Mỹ. Theo đó, các bác sĩ lâm sàng sẽ nhận được một khoản tiền thưởng nhất định nếu họ thực hiện một cam kết, chẳng hạn như cam kết chăm sóc chu đáo cho bệnh nhân bị đau tim. Ngược lại, nếu họ không thực hiện đúng theo cam kết, họ sẽ bị phạt một khoản tiền tương ứng. Giải pháp này cũng mang lại kết quả, nhưng rất khiêm tốn - chẳng hạn một chương trình sử dụng phương pháp này được phát động trên toàn quốc chỉ đạt được mức cải thiện từ 2% đến 4%. Hơn nữa, rất khó để định lượng khoản tiền thưởng này. Họ đánh giá kết quả dựa vào báo cáo của chính các bác sĩ đó, như vậy không phải lúc nào các báo cáo này cũng chính xác. Kết quả này còn phụ thuộc vào tình trạng ban đầu của bệnh nhân. Chẳng hạn, với một ca phức tạp, khả năng biến chứng cao, nhưng người ta lại trả cho bác sĩ phẫu thuật một khoản tiền ít hơn, đơn giản bởi khả năng thành công với trường hợp này là thấp hơn. Người ta dần nhận ra giải pháp này tốn nhiều kinh phí nhưng kết quả mang lại không tương xứng, nên nó khó có thể được phổ biến rộng rãi. 
     Cuối cùng, mọi người dự họp cũng thống nhất rằng sẽ lập ra một bộ các quy định về an toàn trong phẫu thuật và WHO đứng tên khi công bố nó. Những nguyên tắc này sẽ bao gồm đầy đủ các  quy định, từ các biện pháp nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng trong phẫu thuật cho đến những yêu cầu đào tạo và phối hợp trong phòng mổ. Nó được gọi là Hiệp định Geneva về An Toàn Giải Phẫu hoặc Hiệp ước Helsinki nhằm Ngăn Chặn Tình Trạng Gây Tàn Phế Cho Bệnh Nhân. 
     Nhưng khi đi bộ qua các sảnh tối mờ mờ ở tầng hầm của tòa nhà cao vút nơi WHO đặt trụ sở, tôi bắt đầu nghi ngờ về khả năng của dự án. Xuống dưới tầng hầm, đi qua một lối tắt giữa các tòa nhà, tôi thấy nhiều tấm pa-lét nối tiếp nhau và trên đó chất đầy những cuốn sách dày khoảng hai  trăm trang của những nhóm khác đã từng được mời đến để công bố các giải pháp của họ về những vấn đề trong ngành y học. Đó là những cuốn sách hướng dẫn về việc ngăn ngừa bệnh sốt rét, điều trị bệnh HIV/AIDS, kiểm soát bệnh cúm, tất cả được buộc chặt bằng vải thun nhằm chống bụi. Tôi  tin rằng kiến thức trong những cuốn sách này rất quý giá bởi chắc chắn chúng đã được nghiên cứu và sàng lọc kỹ. Một phần trong số đó chắc chắn sẽ giúp cải thiện tình hình, tuy nhiên, chúng lại  không được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Trên những giường bệnh ở Băng-cốc, Brazzaville, Boston và Brisbane, sự thay đổi là không đáng kể. 
     Có lần tôi hỏi một viên chức của WHO, rằng liệu họ có cuốn sách hướng dẫn làm thế nào để thực hiện các chương trình y tế công hiệu quả trên toàn thế giới không. Bà ấy nhìn tôi như người ngoài hành tinh, bởi theo bà ý tưởng đó thật ngốc nghếch. 
     Dù vậy, tôi vẫn không từ bỏ việc đó. Tôi hỏi các nhân viên khác của WHO về những trường hợp mà sự can thiệp của y tế cộng đồng đã mang lại những kết quả nhất định, vì đây là những  trường hợp mà chúng tôi có thể học hỏi được. Họ đưa ra những ví dụ như chiến dịch tiêm chủng phòng chống bệnh đậu mùa đã tiêu diệt đại dịch trên thế giới vào năm 1979 và việc Tiến sĩ John  Snow đã phát hiện ra nguyên nhân gây nên đại dịch tả ở Luân-Đôn vào năm 1854 là do nguồn nước  từ một cái giếng công cộng.  
     Mùa hè năm 1854, khi bệnh dịch tấn công các vùng lân cận của Luân-Đôn, chỉ trong ba ngày đầu tiên đã có 200 người chết. Ba phần tư dân cư trong vùng đã phải bỏ chạy trong hoảng  loạn. Tuy nhiên, qua tuần sau, thêm khoảng 500 người chết. Người ta tin rằng nguyên nhân gây ra đại dịch là do một loại khí độc nào đó. Nhưng Snow lại nghi ngờ giả thuyết ấy, ông nhận thấy những người đã chết từng sống cùng một nơi, và nguồn nước duy nhất họ dùng trong sinh hoạt là từ một cái giếng nước trên Đại lộ Soho’s. Ông hỏi gia đình các nạn nhân về thói quen sinh hoạt của  họ, rồi cẩn thận phân tích số liệu để biết chính xác những yếu tố nào có khả năng là nguyên nhân. Cuối cùng, ông kết luận rằng chính nguồn nước sinh hoạt hàng ngày bị nhiễm khuẩn là nguyên nhân gây bùng phát bệnh tả. (Mãi sau người ta mới phát hiện ra giếng nước được đào gần với một hầm cầu bị rò rỉ). Biết được nguyên nhân gây bệnh, ông đã thuyết phục Hội đồng giáo phận dỡ bỏ tay bơm nước, để không ai có thể lấy nước từ đó nữa, nhờ vậy chấm dứt được sự truyền bệnh. Đồng thời, chính ông đã tạo ra phương pháp hữu hiệu trong việc tìm hiểu nguyên nhân của các đại dịch được nhiều chuyên gia về bệnh truyền nhiễm áp dụng cho đến ngày nay. 
     Cách giải quyết ở những trường hợp này có cùng một điểm chung khá đơn giản, đó là tiêm vắc-xin phòng bệnh và tìm ra nguyên nhân gây bệnh để chấm dứt sự truyền bệnh. Kết quả được đo lường rất cẩn thận và có sự tác động lan truyền – trong kinh doanh, người ta dùng bằng thuật ngữ ROI (Return On Investment - tức là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư) hay theo cách Ác-si-met gọi là lực đòn bẩy.  
     Suy nghĩ về những yếu tố này – đơn giản, có thể định lượng được, có thể lan truyền – tôi nhớ lại một trong những nghiên cứu về y tế công mà tôi khá tâm đắc. Đó là chương trình hợp tác  giữa Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch Mỹ (CDC) và HOPE – một tổ chức từ thiện ở Pakistan, nhằm  xử lý tình trạng chết yểu của những đứa trẻ sống trong khu ổ chuột ở thành phố Karachi (Pakistan). Các khu định cư bất hợp pháp ở những vùng đất bị bỏ hoang xung quanh thành phố phải chứa hơn bốn triệu người sống chen chúc nhau trong diện tích chật hẹp cùng mức sống nghèo khổ nhất trên thế giới. Rác lúc nào cũng đầy đường. Nạn nghèo đói và thiếu thốn lương thực khiến cho 30% đến 40% trẻ em bị suy dinh dưỡng. Hầu như mọi nguồn nước sinh hoạt đều bị nhiễm khuẩn. Trung bình, cứ mười đứa trẻ sinh ra thì có một em chết trước năm tuổi, và nguyên nhân chính là do chúng mắc bệnh tiêu chảy hay bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính. 
     Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các vấn đề này. Ngoài việc thiếu hệ thống xử lý nước và chất  thải, thì nạn thất học cũng là một trong những rào cản đối với quá trình phổ cập kiến thức chăm sóc sức khỏe cơ bản. Bên cạch đó, nạn tham nhũng, chính trị không ổn định cộng với bộ máy quan liêu  đã hạn chế nguồn đầu tư vào ngành công nghiệp địa phương vốn có thể giúp tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân địa phương để cải thiện đời sống. Giá nông sản thấp khiến cho đời sống của những người nông dân ở vùng nông thôn trở nên khó khăn, hàng trăm ngàn người kéo nhau về các thành phố tìm kiếm việc làm, và các.thành phố dần trở nên đông đúc hơn. Trong điều kiện như vậy, sức khỏe của trẻ em chỉ có thể được cải thiện nếu có sự cải cách từ trên xuống dưới của chính phủ và toàn xã hội. 
     Trong tình huống ấy, một nhân viên y tế cộng đồng trẻ tuổi đã có một sáng kiến vô cùng hữu ích. Stephen Luby sinh trưởng tại thành phố Omaha, tiểu bang Nebraska, nơi cha của anh là trưởng bộ môn sản và phụ khoa của trường Đại học Creighton. Anh theo học lớp y khoa tại Đại học Texas Southwestern. Sau khi tốt nghiệp, anh đã về công tác tại Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch ở tiểu bang South Carolina - nơi chuyên điều tra về sự lây lan của những căn bệnh truyền nhiễm. Nhưng khi tổ chức này bị trống một vị trí tại văn phòng ở Pakistan, anh ấy liền xung phong đến đó làm việc. Luby đến Karachi cùng với vợ - là một giáo viên và bắt đầu công bố những phát hiện đầu tiên về điều kiện sống của người dân ở đây vào cuối thập niên 90. 
     Trong một lần nói chuyện với Luby, tôi hỏi anh đã suy nghĩ về các giải pháp xử lý vấn đề ở Karachi như thế nào. Anh trả lời: “Nếu có hệ thống xử lý nước và chất thải như ở Omaha, chúng  tôi có thể giải quyết được vấn đề, nhưng phải đợi hàng thập kỷ nữa mới có được các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu”. Vì thế, nhiệm vụ của anh là phải tìm một giải pháp phù hợp hơn. Cụ thể là sử dụng xà phòng. Giải pháp này quá bình thường và đồng nghiệp của anh đã chế giễu về điều đó.  
     Lúc ấy, Luby được biết tập đoàn sản xuất hàng tiêu dùng hàng đầu, Procter & Gamble, rất muốn chứng tỏ công hiệu của loại xà phòng diệt khuẩn mới ra có tên Safeguard. Dù các đồng nghiệp nghi ngờ giải pháp anh đưa ra, nhưng Luby vẫn cố gắng thuyết phục công ty P&G tài trợ thực hiện một cuộc nghiên cứu với xà phòng. Và họ đồng ý để anh phân phát các hộp xà phòng Safeguard với hai loại, loại có chất diệt khuẩn và loại không có chất diệt khuẩn. Hàng tuần, các nhân viên của HOPE đến 25 khu được chọn ngẫu nhiên trong các khu ổ chuột ở Karachi, họ phân phát cả hai loại xà phòng. Họ khuyến khích mọi người sử dụng xà phòng trong sáu trường hợp sau:  tắm sạch cơ thể một lần mỗi ngày, rửa tay sau khi đi vệ sinh, vệ sinh cho trẻ em, rửa tay trước khi chuẩn bị đồ ăn, rửa tay trước khi ăn và đút cho người khác ăn. Một thời gian sau, họ tiến hành thu thập thông tin về tỷ lệ mắc bệnh của trẻ em ở 25 khu được phát xà phòng và 11 khu không được  phát xà phòng. 
     Năm 2005, trên tạp chí y khoa Lancet, Luby và đồng sự đã chính thức công bố kết quả nghiên cứu. Mỗi hộ gia đình trong vùng nhận bình quân 3,3 bánh xà phòng mỗi tuần trong một  năm. Trong suốt thời gian đó, tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở trẻ em tại những vùng này giảm 52% so với vùng không được phát xà phòng, bất kể loại xà phòng thường hay diệt khuẩn. Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi giảm 48%, tỷ lệ mắc bệnh chốc lở giảm 35%. Đây là những kết quả đáng kinh ngạc, dù nạn mù chữ, nghèo đói, tình trạng đông dân cư và thậm chí người dân ở đây vẫn đang phải sinh hoạt từ nguồn nước nhiễm khuẩn. 
     Nhưng theo Luby, tập đoàn Procter & Gamble lại tỏ ra thất vọng với kết quả nghiên cứu này, vì nhóm nghiên cứu của anh không đưa ra được lợi ích đặc biệt nào nếu sử dụng xà phòng diệt khuẩn. Xà phòng thường vẫn có tác dụng diệt khuẩn, chứ không phải chỉ có xà phòng diệt  khuẩn mới làm được điều đó.
     Luby nói, trong trường hợp này, xà phòng không chỉ để tắm, rửa mà nó chính là phương tiện truyền bá giúp thay đổi hành vi của con người. Nhóm nghiên cứu không chỉ trao cho người dân bánh xà phòng, mà còn đưa ra hướng dẫn cách sử dụng nó. Họ hướng dẫn trực tiếp từng người và bằng những tờ rơi, mặt khác, họ còn giải thích rõ tại sao cần phải sử dụng xà phòng trong sáu trường hợp nêu trên. Điều này rất cần thiết để tạo sự khác biệt. Khi đọc kỹ các chi tiết trong bản báo cáo, người ta thấy các số liệu thật bất ngờ, vì trước khi cuộc nghiên cứu được tiến hành, số bánh xà phòng bình quân mà mỗi hộ gia đình đang sử dụng là hai bánh mỗi tuần. Nói cách khác, họ đã sử dụng xà phòng rồi. 
     Vậy thì nghiên cứu này mang lại những thay đổi gì? Có hai vấn đề chính được đặt ra. Luby  nói, thứ nhất: “Chúng tôi muốn tháo gỡ khó khăn về kinh tế trong việc mua xà phòng của người  dân. Họ nói là xà phòng rẻ nên hầu như nhà nào cũng sử dụng. Nhưng chúng tôi muốn họ dùng nhiều hơn số họ đang dùng, mà họ lại quá nghèo. Vì thế, chúng tôi giúp họ điều này”. Thứ hai, và cũng là điều quan trọng nhất của dự án, là giúp người dân biết cách sử dụng xà phòng hiệu quả, đúng phương pháp. 
     Luby và nhóm nghiên cứu còn quan sát cách người dân Pakistan, Bangladesh và một số nơi khác quanh vùng Nam Á rửa tay. Họ thấy, hầu hết mọi người đều rửa tay sau khi đi vệ sinh. Anh nói: “Những người dân ở vùng Nam Á rất có ý thức về sự sạch sẽ”. Cho dù phải đi khá xa để rửa  tay, nhưng họ vẫn thực hiện việc đó hơn 80% số lần sau khi đi vệ sinh, và đây là một tỷ lệ khá cao. Nhưng nhóm nghiên cứu lại thấy, họ rửa tay không sạch. Họ thường rửa rất nhanh, hay chỉ rửa qua loa cho có. Thậm chí họ dùng tro và bùn để rửa tay, chứ không phải sử dụng xà phòng với nước. 
     Cuộc thử nghiệm với xà phòng đã thay đổi điều đó. Nhóm nghiên cứu đi đến từng nhà hướng dẫn chi tiết cách rửa sạch tay, từ việc làm ướt hai bàn tay bằng nước, cho đến việc chà xát xà phòng thật kỹ vào hai bàn tay, sau đó dùng nước rửa sạch xà phòng. Thậm chí, trong báo cáo còn ghi “lau khô tay bằng quần áo sau khi rửa”, tuy điều này là không cần thiết lắm. Họ còn hướng dẫn người dân làm quen với việc rửa tay vào những lúc mà chính họ vẫn chưa quen với việc đó, chẳng  hạn như cần phải rửa tay trước khi nấu nướng hay đút ăn cho trẻ. Chính bánh xà phòng cũng là một  yếu tố. Luby nói: “Có loại xà phòng đẹp nên người ta cũng thích hơn”, vì nó có mùi thơm và nhiều bọt hơn loại xà phòng mà người ta thường mua. Các tập đoàn sản xuất đa quốc gia rất quan tâm đến ý kiến của người tiêu dùng, nhưng những người làm công tác y tế cộng đồng lại không để ý đến điều đó. Kết quả là người dân rất muốn nhận xà phòng, và nhóm nghiên cứu đã mang đến cho họ một món quà thật sự chứ không chỉ là những lời nói. Nó đã đem đến cho người dân những kiến thức cơ bản giúp họ cải thiện đời sống, và qua đó làm giảm thiểu nhiều dịch bệnh. 
     Nhớ lại cuộc thử nghiệm này, tôi cảm thấy rất thú vị khi nhận ra nghiên cứu về lợi ích của danh mục kiểm tra cũng giống như cuộc nghiên cứu về lợi ích của xà phòng. Vì thế, tôi tự hỏi: Danh mục kiểm tra sẽ có tác dụng trong việc chăm sóc bệnh nhân trong phẫu thuật không – đơn  giản, chi phí ít, hiệu quả cao và có ảnh hưởng lan truyền? Tôi vẫn chưa biết làm thế nào để lập ra một danh mục có thể vừa đơn giản vừa hiệu quả cho những vấn đề đa dạng trong phẫu thuật ở quy mô toàn cầu. Tôi không chắc chúng có khả thi không, nhưng khi nêu lên ý kiến này tại hội thảo ở Geneva, vài đồng nghiệp của tôi đã kỳ vọng về kết quả mà danh mục kiểm tra có thể mang đến. 
     Một người đã đưa ra kinh nghiệm có được từ Bệnh viện Nhi Columbus, nơi đã lập một danh mục kiểm tra nhằm giảm mức độ nhiễm trùng trong phẫu thuật. Đây là một trong những biến chứng phổ biến nhất trong phẫu thuật ở trẻ em. Và để phòng ngừa nó, bên cạnh việc sử dụng kỹ thuật vô trùng đúng cách, còn cần phải đảm bảo việc tiêm thuốc kháng sinh đúng liều trong khoảng thời gian 60 phút trước khi phẫu thuật. 
     Trong trường hợp này, thời điểm tiêm kháng sinh rất quan trọng. Vì nếu tiêm kháng sinh quá sớm hoặc quá muộn thì sẽ không hiệu quả. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc tiêm kháng sinh đúng lúc giúp giảm thiểu rủi ro do nhiễm trùng đến một nửa. Thực tế cho thấy, trong trường hợp khẩn cấp, nếu tiêm thẳng kháng sinh vào mạch máu chỉ ba mươi giây trước khi phẫu thuật, vẫn đủ thời gian để thuốc có tác dụng. 
     Nhưng nhiều lúc người ta vẫn bỏ qua bước này. Năm 2005, Bệnh viện Nhi Columbus đã kiểm tra lại các hồ sơ bệnh án và phát hiện thấy hơn một phần ba bệnh nhân phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa không được tiêm đúng loại thuốc kháng sinh vào đúng thời điểm cần thiết. Một số thì được tiêm quá sớm. Một số thì lại quá trễ. Rồi lại có bệnh nhân không được tiêm kháng sinh trước khi phẫu thuật. 
     Điều ấy thật đáng tiếc. Việc này khó thực hiện đến vậy sao? Những người trong ngành y cho rằng đây là một việc đơn giản, và chúng ta luôn chắc chắn đã thực hiện đúng việc này. Nhưng thực tế lại không phải vậy. Khi có một bệnh nhân được đẩy vào phòng mổ, lúc đó, tất cả mọi thứ xung  quanh sẽ trở nên náo động hơn, và có thể chúng ta đã bỏ quên các bước cần thực hiện. Thông thường, bác sĩ gây mê có nhiệm vụ tiêm kháng sinh, nhưng họ đang tập trung gây mê cho bệnh nhân sao cho thật an toàn và nhẹ nhàng, và điều này thường không đơn giản khi bệnh nhân lại là một đứa trẻ tám tuổi đang sợ hãi vì phải cởi bỏ hết quần áo và nằm một mình trên cái bàn lạnh cóng trong căn phòng toàn những người lạ trực sẵn với dao kéo trong tay để mổ cô bé. Và còn các vấn đề khác có thể xảy ra như: thiết bị có thể trục trặc, cơn hen làm bệnh nhân khó chịu hơn, phải gọi bác sĩ phẫu thuật về phòng cấp cứu gấp. Tất cả những việc đó có thể làm chúng ta quên đi một thao tác đơn giản như tiêm kháng sinh. 
     Giám đốc Ban quản trị phẫu thuật của bệnh viện mà tôi đang nói đến - một người xuất thân từ bác sĩ chuyên phẫu thuật tim cho bệnh nhi - đã quyết định thực hiện chương trình mà ngành hàng không đã áp dụng. Ông lập ra một danh mục “Những Việc Cần Làm Trước Khi Mổ”, và gắn nó trên tấm bảng trắng ở mỗi phòng mổ. Danh mục ấy khá đơn giản, có một ô dành cho y tá để đánh dấu vào đó sau khi đã xác nhận bằng miệng với ê kíp phẫu thuật rằng họ đã tiếp nhận đúng bệnh nhân và vùng cơ thể cần giải phẫu - đây là điều quan trọng đầu tiên mà các ê kíp cần phải xác định rõ trong tất cả các trường hợp khi đưa bệnh nhân vào phòng mổ. Thêm một ô để xác nhận đã tiêm kháng sinh cho bệnh nhân (và thêm một số lưu ý khác nhưng chỉ có ý nghĩa trong một số trường  hợp cụ thể). 
     Bảng danh mục rất ngắn gọn, nhưng thật khó để các ê kíp mổ ngưng lại và sử dụng nó, nên việc áp dụng rất nan giải vì bản thân họ cũng không phải đánh dấu xác nhận vào danh mục. Vị giám đốc đã đích thân giải thích cho các y tá, bác sĩ gây mê và bác sĩ phẫu thuật biết ý nghĩa của danh mục kiểm tra. Ngoài ra, ông còn cho thiết kế một cái hộp nhỏ bằng kim loại có khắc chữ Những Việc Cần Làm Trước Khi Mổ và đặt nó vào trong hộp dụng cụ mổ. Cái hộp dài khoảng  15cm, đựng vừa một con dao mổ, và các y tá phải mở nó để lấy con dao khi chuẩn bị dụng cụ trước ca mổ. Thao tác này nhắc các y tá xác nhận vào danh mục kiểm tra trước khi mổ. Và nó cũng đảm bảo rằng bác sĩ phẫu thuật không thể bắt đầu ca mổ nếu y tá chưa ra hiệu và cái hộp chưa được mở ra. Đây đúng là một sáng kiến rất tinh tế, nó thể hiện sự phân quyền được áp dụng với cả danh mục kiểm tra đơn giản. 
     Sau ba tháng thực hiện, kết quả là 89% bệnh nhân phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa được tiêm đúng loại kháng sinh vào đúng thời điểm. Và 100% là kết quả sau mười tháng. Danh mục kiểm tra  trở nên quen thuộc trong mỗi phòng mổ, và các thành viên trong ê kíp đã tạo được thói quen chưa  tiến hành mổ nếu như họ chưa hoàn thành đầy đủ các bước chuẩn bị cần thiết. 
     Tôi rất ngạc nhiên, nhưng vẫn thấy hoài nghi về kết quả đó. Quả là nhờ danh mục kiểm tra \ mà bệnh viện này đã luôn thực hiện đúng các thao tác trong chăm sóc bệnh nhân phẫu thuật. Và tôi tin rằng tỷ lệ nhiễm trùng trong phẫu thuật cũng đã giảm đáng kể. Nhưng để giảm toàn bộ tỷ lệ biến chứng, tôi cho rằng cần phải có một danh mục kiểm tra bao quát được tất cả các vấn đề có thể bị sai sót trong phẫu thuật. 
     Sau đó Richard Reznick, trưởng khoa phẫu thuật Đại học Toronto, cho biết bệnh viện của ông vừa hoàn thành cuộc thử nghiệm về tính khả thi của một danh mục kiểm tra bao gồm 21 vấn đề cần làm trước khi phẫu thuật. Ông cùng các đồng nghiệp đã xây dựng một danh mục kiểm tra nhằm hạn chế những lỗi có thể xảy ra trong quá trình giải phẫu. Danh mục này buộc mọi người  phải xác nhận bằng miệng với nhau rằng họ đã tiêm kháng sinh cho bệnh nhân, đã chuẩn bị máu, đã có kết quả chụp cắt lớp và các xét nghiệm cần thiết cho ca mổ, các dụng cụ đặc biệt phòng khi cần đến cũng đã được chuẩn bị,... 
     Danh mục còn bắt buộc mọi người phải “thảo luận nhóm”. Tức là trước khi bắt đầu ca mổ, các thành viên trong kíp mổ có nhiệm vụ thảo luận nhanh, ngắn gọn về những vấn đề như: ca mổ sẽ kéo dài trong khoảng bao lâu, cần chuẩn bị bao nhiêu đơn vị máu trong trường hợp bệnh nhân bị mất máu, trong quá trình phẫu thuật có thể xảy ra rủi ro gì với bệnh nhân không, và từng thành viên trong kíp mổ cần phải lưu ý đến vấn đề gì nữa không. 
     Reznick chưa được nghe câu chuyện về thời kỳ cuối của các Chủ đầu tư xây dựng, nhưng bằng trực quan của mình, ông đã hướng cách giải quyết vấn đề trong ngành y như trong lĩnh vực xây dựng nhà cao tầng – đó là có một tập hợp các mục kiểm tra những nhiệm vụ và trao đổi thông tin nhằm xử lý những vấn đề càng lúc càng phức tạp. Và hóa ra, nhiều người đã áp dụng phương pháp giống như Reznick. Đó là Martin Makary - một bác sĩ phẫu thuật tuyến tụy làm việc ở Johns Hopkins - khi ông cho chúng tôi xem danh mục gồm 18 vấn đề mà ông đã thử nghiệm cùng với 11 bác sĩ phẫu thuật khác trong vòng 5 tháng. Tương tự, một nhóm các bác sĩ phẫu thuật ở bệnh viện Southern California trong hệ thống chăm sóc sức khỏe Kaiser đã nghiên cứu một “danh mục kiểm  tra việc chuẩn bị trước khi mổ” gồm 30 vấn đề. Và thực tế là danh mục này được xây dựng trước danh mục của Đại học Toronto và bệnh viện Johns Hopkins. Nhưng tất cả các danh mục này đều được xây dựng gần giống nhau. 
     Về cơ bản, trong phẫu thuật có bốn mối nguy hiểm có thể gây chết người, đó là: nhiễm  trùng, mất máu, gây mê không an toàn và sự cố bất ngờ. Đối với ba mối nguy hiểm đầu tiên, khoa học và kinh nghiệm thực tiễn đã có nhiều biện pháp khắc phục hiệu quả và dễ thực hiện nên đã dẫn  đến việc chúng ta nghĩ mình đã luôn luôn thực hiện đúng. Nhưng thực tế lại không phải vậy. Đây là những sai sót đơn giản – bởi một danh mục kiểm tra hoàn hảo có thể giúp ngăn ngừa được nó. Và kết quả là, những danh mục kiểm tra được đưa ra đều liệt kê các bước thật chi tiết nhằm giúp loại bỏ các sai sót này. 
     Nhưng mối nguy hiểm thứ tư – sự cố bất ngờ – lại hoàn toàn khác. Nó bắt nguồn từ những vấn đề phát sinh trong quá trình phẫu thuật, từ khi bắt đầu mổ cơ thể bệnh nhân ra cho đến khi hoàn thành mũi khâu cuối cùng. Các nhà nghiên cứu nhận ra rằng không có danh mục kiểm tra nào có thể dự báo được những rủi ro mà ê kíp mổ phải đối mặt. Vì thế, họ quyết định, cách khả quan nhất là yêu cầu cả kíp mổ cùng nhau thảo luận nhanh về vấn đề phát sinh - tức là họ cùng chẩn đoán và  đưa ra cách giải quyết các nguy hiểm khác nhau ở từng bệnh nhân.  
     Điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng nó lại là một bước quan trọng để chúng ta có thể kiểm soát các rủi ro luôn trực chờ xảy ra trong phòng mổ. Theo quan niệm truyền thống, giải phẫu là khả năng của từng cá nhân – khi các bác sĩ phẫu thuật được ví như một bậc thầy, một nghệ sĩ. Nhiều người còn ví phòng mổ như “nhà hát”, và nó chính là sân khấu của bác sĩ phẫu thuật. Họ đứng dưới ánh đèn và mong muốn trước khi bắt đầu, mọi người đã vào đúng vị trí cũng như bệnh  nhân đã được gây mê để sẵn sàng tiến hành ca mổ.
     Cùng với sự phát triển của ngành giải phẫu, các bác sĩ phẫu thuật như chúng tôi muốn tin rằng mình ngày càng phát triển hơn, và rằng chúng tôi sẽ phối hợp với nhau thật tốt để thành một ê kíp. Nhưng thực tế cho thấy, không phải tất cả các thành viên trong ê kíp mổ đều biết và dự báo được những rủi có thể xảy ra cho bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật, cũng như họ không rõ tại sao phải tiến hành ca mổ. Trong một báo cáo về việc khảo sát ba trăm bác sĩ bước ra từ phòng mổ sau ca phẫu thuật, kết quả cho thấy, cứ tám người thì có một người nói rằng họ thậm chí không biết chắc vị trí mổ cho đến khi ca mổ bắt đầu. 
     Brian Sexton, một nhà tâm lý học tại Johns Hopkins, đã tiên phong trong việc thực hiện một số cuộc nghiên cứu về sự phối hợp giữa các thành viên trong ê kíp mổ. Ông tiến hành khảo sát hơn một ngàn người từng tham gia phẫu thuật ở các bệnh viện của năm nước khác nhau, là Mỹ, Đức,  Israel, Ý và Thụy Sĩ – Kết quả cho thấy, dù 64% các bác sĩ phẫu thuật đánh giá ê kíp mổ của mình đã phối hợp rất tốt với nhau, nhưng chỉ có 39% bác sĩ gây mê, 28% y tá và 10% bác sĩ gây mê thực tập có cùng ý kiến. Và cứ bốn bác sĩ phẫu thuật thì có một người tin rằng những thành viên cấp dưới không nên nghi ngờ về quyết định của bác sĩ điều trị cấp trên. 
     Để các thành viên trong ê kíp mổ phối hợp với nhau hiệu quả là một vấn đề rất khó. Điều đó không chỉ phụ thuộc vào việc ứng xử của bác sĩ phẫu thuật với các thành viên trong ê kíp mổ, chẳng  hạn như việc thỉnh thoảng họ nổi nóng với ê kíp, dù đôi lúc những chuyện ấy có xảy ra, nhưng đó  không phải là lý do chính của vấn đề này. (Có một trường hợp như thế này: Cách đây vài năm, khi  tôi đi tập huấn tại một bệnh viện, một bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm lâu năm đã nổi nóng với một bác sĩ thực tập cùng khóa tập huấn với tôi khi anh ấy đặt câu hỏi về kế hoạch phẫu thuật và vị bác sĩ ấy liền ra lệnh cho anh phải rời khỏi bàn mổ, và đứng vào một góc đến khi nào anh chịu nói xin lỗi mới cho trở lại bàn mổ. Nhưng anh ấy không đồng ý, và hậu quả là bị đuổi ra khỏi phòng mổ. Thậm chí vị bác sĩ kia còn muốn đuổi anh ấy khỏi khóa học vì tội không vâng lời). Vấn đề ở đây là các thành viên thể hiện sự bất hợp tác bằng cách im lặng, đó là quan điểm của những người chỉ xem trọng chuyên môn của họ. Và họ nghĩ rằng “Đó không phải là việc của tôi”, dù họ đang thực hiện một ca mổ, đang đáp chiếc máy bay chở đầy hành khách xuống đường băng, hay đang xây dựng một tòa nhà cao hàng trăm mét. Điều này vẫn thường xảy ra trong ngành y, và tôi đã từng thấy nó xảy ra trong chính phòng mổ của mình. 
     Làm việc theo nhóm có thể sẽ khó trong một số lĩnh vực, nhưng khi rơi vào tình huống quá phức tạp, chắc chắn chúng ta không thể chỉ dựa vào sự phân công nhiệm vụ và trình độ chuyên môn của các cá nhân. Ví dụ, trong phòng mổ, có bác sĩ phẫu thuật, trợ lý mổ, y tá phụ mổ, y tá tuần hoàn, bác sĩ gây mê,... mỗi người phụ trách một mảng chuyên sâu mà họ đã được đào tạo, và họ cũng phải mất vài năm để thành thạo công việc ấy. Chúng ta không chỉ cần họ hoàn thành tốt công việc của mình mà còn cần họ phối hợp với nhau để đạt được kết quả tốt nhất. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp nhằm đảm bảo cả nhóm không để sai sót xảy ra, và nếu phát sinh vấn đề thì cả ê kíp mổ phải phối hợp cùng nhau giải quyết. 
     Trước đây tôi cho rằng phải nhờ may mắn mới có được một ê kíp phối hợp hiệu quả. Vì đôi khi chính tôi cũng đã từng trải qua những trường hợp như thế. Trong các ca mổ khó, dù cả ê kíp đã làm việc hết mình, phối hợp với nhau rất ăn ý, nhưng vẫn phải nhờ vào sự may mắn mới không để nguy hiểm xảy đến với tính mạng của bệnh nhân. Lần nọ tôi tiếp nhận một bệnh nhân 80 tuổi cần mổ cấp cứu. Trước đó một tuần, ông cụ đã phải phẫu thuật tim và đang hồi phục khá tốt. Nhưng trong một đêm, bụng ông bỗng nhiên liên tục bị đau dữ dội cho đến suốt sáng hôm sau, cơn đau trở nên đều đặn hơn. Tôi được gọi đến để khám cho cụ. Lúc đến, tôi thấy cụ nằm trên giường và có vẻ như ông bị kiệt sức vì cơn đau hành hạ. Nhịp tim cao và không ổn định. Huyết áp giảm. Và khi tôi chạm tay vào cơ thể, ông cụ dường như giật nảy lên vì đau đớn.
     Ông cụ biết là có điều gì đó không ổn. Đầu óc ông vẫn tỉnh táo. Nhưng ông không hề tỏ ra sợ hãi. 
     Ông nghiến chặt hàm răng, và hỏi: “Chúng ta cần phải làm gì đây?” 
     Tôi nói: “Động mạch ruột của ông bị nghẽn”. Trường hợp này cũng giống như bệnh nhân bị đột quỵ, chỉ khác là nó xảy ra ở ruột chứ không phải ở não. Vì máu không thể chảy vào ruột nên ruột bị hoại tử và thoát vị. Bệnh nhân không thể sống sót nếu không phẫu thuật. Nhưng tôi cũng nói  với ông cụ rằng ngay cả giải phẫu đôi khi cũng không giúp được gì.   Tuy nhiên, một nửa số bệnh nhân rơi vào tình trạng này đã vượt qua được nguy hiểm. Và nếu ông cụ là một trong số đó, thì vẫn có nhiều biến chứng đáng lo có thể xảy ra trong phẫu thuật. Có thể, ông cụ sẽ cần đến thở máy và ăn uống bằng đường ống. Có một khó khăn là ông cụ đã lớn tuổi và vừa trải qua một ca phẫu thuật nguy hiểm nên còn rất yếu. Tôi hỏi rằng liệu ông cụ có muốn tiếp tục phẫu thuật nữa hay không. 
     Ông đồng ý phẫu thuật, nhưng muốn tôi nói chuyện với vợ và con trai của ông ấy để thông báo về tình hình sức khỏe hiện tại. Tôi đã gọi điện thoại cho họ, và họ cũng đồng ý. Sau đó, tôi gọi điện về bệnh viện giải thích tình hình và yêu cầu chuẩn bị gấp phòng mổ cũng như ê kíp mổ. Tôi sẽ nhận bất cứ ai đang có mặt ở bệnh viện tham gia phụ mổ và bất cứ thứ gì bệnh viện có thể chuẩn bị được. 
     Một giờ sau, chúng tôi đưa bệnh nhân vào phòng mổ. Ê kíp mổ nhanh chóng bắt tay vào thực hiện công việc của mình. Jay, y tá tuần hoàn, tự giới thiệu mình với bệnh nhân và giải thích  ắn tắt về những gì mà mọi người sẽ tiến hành làm. Steve, y tá phụ mổ, đã mặc áo choàng và mang găng tay đứng chờ sẵn với dụng cụ vô trùng. Zhi, bác sĩ gây mê có kinh nghiệm lâu năm, cùng với Thor, trợ tá của ông ấy, vừa chuẩn bị thuốc và dụng cụ vừa cùng nhau hội ý nhằm đảm bảo họ đã nắm rõ nhiệm vụ của mình. Joaquim, bác sĩ giải phẫu thực tập, cầm cái ống thông Foley - dùng để có thể dẫn lưu liên tục bàng quang, chờ cho bệnh nhân ngủ thiếp đi sẽ gắn cái ống với bàng quang. 
     Những tiếng kêu tích tắc cứ vang ra từ chiếc đồng hồ. Chúng tôi càng chậm trễ, ruột sẽ bị hoại tử nhiều hơn, và như thế, bệnh nhân sẽ yếu hơn dẫn đến cơ hội sống sót cũng thấp hơn. Thật may mắn khi mọi thành viên trong ê kíp mổ của chúng tôi đều hiểu được điều này, trong khi thực tế không phải ê kíp mổ nào cũng hiểu được tình hình khẩn cấp mà mình đang phải đối mặt. Họ biết  tình hình lúc này, nên mọi thao tác đều trở lên nhanh nhẹn, chính xác và đồng bộ hơn. Đây là ca mổ rất khó, nhưng điều đó không thể cản trở được quyết tâm của chúng tôi. 
     Ông cụ có thân hình lớn, cổ ngắn nhưng phổi không có nhiều lượng khí dự trữ, và điều này đã gây khó khăn cho Zhi khi đặt ống thở để tiến hành gây mê. Nhưng Zhi đã báo cho chúng tôi biết trước khả năng này và mọi người đã có phương án dự phòng cũng như chuẩn bị thêm cả dụng cụ mà ông ấy và Thor có thể phải cần đến. Khi Joaquim và tôi mổ bụng bệnh nhân ra, chúng tôi thấy phần ruột kết bên phải có màu đen đã bị hoại tử – nó đã thực sự chết – nhưng chưa thoát vị, còn khoảng 3/4 ruột còn lại kết với tất cả những ruột nhỏ dường như vẫn ổn. Đây đúng là tin tốt lành, và vấn đề cũng đã được xác định rõ. Tuy nhiên, khi bắt đầu cắt bỏ phần ruột kết bên phải bị hoại tử, chúng tôi phát hiện thấy phần ruột còn lại có hình dạng không bình thường. Ở nơi đáng ra phải có màu hồng khỏe mạnh, chúng tôi lại thấy lác đác vài mảng màu tía kích thước khoảng bằng một phần tư đồng xu. Các cục máu không những làm nghẽn động mạch chính ở phần ruột kết bên phải mà còn làm nghẽn các nhánh động mạch của phần bên trái. Vậy là chúng tôi phải cắt bỏ toàn bộ phần ruột kết, tất cả dài khoảng 1m, và gắn hậu môn nhân tạo cho bệnh nhân – đó là chiếc túi đựng chất thải bài tiết. Steve đoán trước chúng tôi sẽ làm gì nên đã yêu cầu Jay lấy dụng cụ banh miệng vết mổ cho chúng tôi. Joaquim thuyết phục tôi cắt vết mổ vùng bụng rộng hơn và anh ấy cùng với tôi thực hiện từng bước: kẹp, cắt, và thắt cẩn trọng từng chút một xuyên qua các mạch máu đang bao lấy ruột kết của bệnh nhân. Bệnh nhân bắt đầu chảy máu vì những vết xước – nguyên nhân là do chất độc từ những đoạn ruột bị hoại tử làm bệnh nhân mất khả năng đông máu. Trong khi đó, Zhi cùng Thor tiếp tục truyền dịch, và khi ca mổ thực hiện được nửa quãng đường, huyết áp của bệnh nhân đã ổn định hơn so với lúc bắt đầu. Ca mổ kết thúc với kết quả tuyệt vời, và khi tôi đề nghị chuyển bệnh nhân đến khu ICU, lập tức Zhi cho biết rằng anh ấy đã sắp xếp và hướng dẫn chi  tiết với chuyên viên chăm sóc điều trị. 
     Chúng tôi đã làm việc với nhau như một tập thể, không phân chia rạch ròi theo từng mảng chuyên môn, chính nhờ vậy mà không để xảy ra sai sót và bệnh nhân đã được cứu sống. Chúng tôi đã hoàn thành ca mổ trong chưa đầy hai giờ đồng hồ, các triệu chứng dần ổn định và bệnh nhân có thể ra viện sau vài ngày. Tôi được gia đình bệnh nhân khen ngợi và cám ơn. Tôi ước gì mình có thể nhận lấy vinh dự ấy, nhưng ca mổ là một bản giao hưởng và nó là thành quả của cả một dàn nhạc. 
     Tôi có thể khẳng định kết quả của sự chung sức ấy chính là nhờ vào việc làm của mình. Nhưng nguồn gốc của nó vẫn khó xác định. Tôi đã từng nói rằng đó chỉ là sự may mắn – một kết quả có được nhờ vào những cá nhân tình cờ có mặt trong ca mổ đó và sự thấu hiểu nhau giữa chúng tôi vào buổi chiều đặc biệt ấy. Mặc dù tôi vẫn thường làm việc với Zhi, nhưng đã vài tháng nay tôi không làm cùng Jay hay Steve, với Joaquim lại còn lâu hơn thế. Tôi chỉ mới làm việc cùng Thor đúng một lần. Trước đó chúng tôi chưa bao giờ cùng nhau thực hiện một ca mổ với đủ sáu người như thế, và điều này là rất bình thường ở những bệnh viện lớn. Bệnh viện nơi tôi làm việc có 42 phòng mổ với hơn một ngàn nhân viên. Chúng tôi liên tục nhận các y tá mới, kỹ thuật viên mới, bác sĩ thực tập và bác sĩ điều trị mới. Hầu như lúc nào cũng có người mới tham gia vào ê kíp mổ. Vì thế, thật khó có thể nắm bắt được trình độ chuyên môn của mọi thành viên trong ê kíp – một nhân tố không mấy quan trọng nhưng lại ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của ca phẫu thuật. Nhưng từ lúc sáu người chúng tôi cùng làm việc với nhau trong ca mổ đặc biệt này, không biết bằng cách nào đó, mọi thứ đều phối hợp rất ăn ý với nhau. Tôi cho rằng đó quả là một điều thú vị. 
     Như tôi đã nói, thành công của ca mổ ấy dường như là nhờ vào sự may mắn. Nhưng nếu không phải nhờ vào sự may mắn, thì rất có thể kết quả đó là nhờ vào các danh mục kiểm tra mà Đại học Toronto, bệnh viện Hopkins và Kaiser đưa ra. Họ đều nhất mực cho rằng kíp mổ cần phải thảo luận với nhau về ca mổ, ít nhất là một phút trước khi bắt đầu. Đây là cách thúc đẩy tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong ê kíp với nhau, một hình thức giống như hội ý với nhau trước khi cùng hợp tác trong công việc. Tương tự, có một bước cần phải hoàn thành trong danh mục kiểm tra, và nó khá lạ với tôi: đó là các thành viên trong ê kíp mổ phải giới thiệu tên cho nhau. 
     Điều này được thể hiện rõ nhất trong danh mục kiểm tra của bệnh viện Johns Hopkins. Trước khi một ê kíp mới bắt đầu ca mổ, mọi thành viên sẽ giới thiệu tên và chức danh của từng người, sau đó đánh dấu vào ô kiểm tra: “Tôi là Atul Gawande, bác sĩ giải phẫu chính”, hoặc “Tôi  là Jay Powers, y tá tuần hoàn”, hay “Tôi là Zhi Xiong, bác sĩ gây mê”. 
     Lúc đầu tôi cho rằng điều này có cảm giác hơi giả tạo và tự hỏi liệu nó thực sự có ích chăng. Nhưng bây giờ tôi nhận ra điều đó thật sự có ích, vì người ta đã nghiên cứu rất kỹ trước khi đưa nó vào danh mục. Các nghiên cứu tâm lý trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã chứng minh được điều này là có ích – những người chưa biết tên nhau thường không phối hợp với nhau tốt bằng những người biết tên nhau. Và chính Brian Sexton, một nhà tâm lý học của bệnh viện Johns Hopkins, đã thực hiện các nghiên cứu tại phòng mổ nhằm chứng minh điều đó. Trong một bản nghiên cứu, ông cùng đồng sự của mình đã giữ những thành viên trong ê kíp mổ ở ngoài phòng phẫu thuật và phỏng vấn họ hai vấn đề: họ đánh giá mức độ giao tiếp trong phòng mổ như thế nào và tên của những thành  viên khác trong ê kíp mổ là gì? Các nhà nghiên cứu nhận thấy, các thành viên không biết tên nhau trong khoảng một nửa số ca mổ. Tuy nhiên, khi họ biết được tên của những thành viên trong ê kíp, mức độ giao tiếp đã tăng lên đáng kể. 
     Các nhà nghiên cứu tại Johns Hopkins và những nơi khác còn quan sát thấy rằng khi y tá có cơ hội tự giới thiệu tên và nói lên những mối quan tâm của mình trước khi bắt đầu một ca mổ, có thể họ sẽ chú ý nhiều hơn đến các vấn đề và đưa ra giải pháp để giải quyết. Các nhà nghiên cứu gọi  đây là một “hiện tượng kích hoạt”. Việc tạo cho ai đó cơ hội phát biểu ngay từ đầu sẽ kích hoạt cảm giác muốn tham gia trong họ bởi trách nhiệm cũng như thiện ý muốn nói ra mối quan tâm của mình. 
     Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế nhất định, và hầu như chưa đáng tin cậy. Nhưng kết quả ban đầu mà nó đem đến rất thú vị. Ngoài kinh nghiệm và trình độ chuyên môn, chưa có gì chứng minh rằng nó có thể giúp các bác sĩ phẫu thuật giảm thiểu nguy hiểm cho bệnh nhân. Nhưng ở ba thành phố khác nhau, các ê kíp mổ đã thử nghiệm các danh mục kiểm tra  khác nhau, và mỗi danh mục đều tìm được một tác dụng tích cực. 
     Ở bệnh viện Johns Hopkins, các nhà nghiên cứu đã tính toán hiệu quả của danh mục kiểm  tra đối với khả năng phối hợp trong một ê kíp. Có 11 bác sĩ phẫu thuật đồng ý thử nghiệm trong các ca mổ của họ, gồm: 7 bác sĩ phẫu thuật đa khoa, 2 bác sĩ phẫu thuật tạo hình và 2 bác sĩ phẫu thuật thần kinh. Sau ba tháng, các thành viên trong ê kíp mổ của những bác sĩ này báo cáo rằng “ê kíp của  họ phối hợp với nhau rất tốt”, thể hiện ở kết quả thành công nhảy vọt từ 68% lên 92%. 
     Còn tại các bệnh viện của Kaiser ở tiểu bang Nam California, các nhà nghiên cứu lại tiến  hành kiểm tra tác dụng của danh mục kiểm tra đối với 3.500 ca mổ trong vòng sáu tháng. Trong thời gian đó, họ nhận thấy đánh giá của các nhân viên tại bệnh viên về không khí làm việc trong ê kíp tăng từ mức độ “tốt” đến “rất tốt”. Mức độ hài lòng của các nhân viên tăng lên 19%. Tỷ lệ các y tá phòng mổ nghỉ làm mỗi năm giảm từ 23% xuống còn 7%. Và dường như các danh mục kiểm tra còn giúp loại bỏ những lỗi gần giống nhau. Ví dụ, bản hướng dẫn trước khi mổ giúp ê kíp nhận thấy một lọ nhỏ chứa potassium chloride đã được thay bằng một lọ kháng sinh – một sự nhầm lẫn có thể gây chết người. Trong một trường hợp khác, danh mục kiểm tra đã giúp họ phát hiện ra lỗi liên quan đến công việc giấy tờ khi lên kế hoạch phẫu thuật mổ lồng ngực, là quy trình phẫu thuật với vết mổ to từ trước ra sau, trong khi bệnh nhân chỉ cần phẫu thuật nội soi lồng ngực và việc này chỉ cần một vết mổ khoảng 0.6cm. 
     Ở bệnh viện Đại học Toronto, các nhà nghiên cứu lại theo dõi các ca phẫu thuật nhằm chứng  minh hiệu quả của danh mục kiểm tra. Họ quan sát việc sử dụng danh mục kiểm tra trong 18 ca mổ. Nhưng họ phát hiện thấy những sai sót nghiêm trọng và mơ hồ trong khoảng 10 ca – có ít nhất một trường hợp ê kíp không tiêm kháng sinh cho bệnh nhân; trong một trường hợp khác, ê kíp không chắc là đã chuẩn bị máu cho bệnh nhân; và một số ca mổ phát sinh những vấn đề liên quan đến đặc tính riêng của từng bệnh nhân mà tôi nghĩ rằng danh mục kiểm tra khó có thể giúp được gì. 
     Ví dụ, trong một ca mổ vùng bụng bằng phương pháp gây tê tủy sống. Với những ca như thế, bệnh nhân cần cho các bác sĩ biết họ có cảm thấy đau hay không, vì nếu họ cảm thấy đau nghĩa là thuốc tê đang mất dần tác dụng và cần phải tiêm một liều bổ sung. Nhưng trong trường hợp đặc biệt này, bệnh nhân có trạng thái thần kinh không bình thường khiến anh ấy không thể nói được. Thay vào đó, bệnh nhân chỉ giao tiếp được bằng tay. Trong khi, bình thường chúng tôi phải giữ cánh tay và bàn tay của bệnh nhân nhằm tránh cho họ vô tình đụng phải các bác sĩ phẫu thuật, tấm  phủ vô trùng hay vùng mổ. Tuy nhiên, trong ca mổ này, nếu vẫn giữ đúng quy định như thường lệ 
ắt sẽ gây ra một vấn đề nghiêm trọng, nhưng ê kíp chưa hẳn nhận ra vấn đề đó chỉ cho đến khi họ bắt đầu mổ. Bác sĩ phẫu thuật bước vào, mang áo choàng và găng tay rồi tiến lại gần bàn mổ. Vì  phải thực hiện theo danh mục kiểm tra, nên thay vì cầm con dao mổ, ông ngừng lại và hội ý với mọi  người về kế hoạch mổ. Báo cáo của Đại học Toronto kèm theo bản ghi chép cụ thể cuộc thảo luận  đó như sau: 
     Bác sĩ phẫu thuật hỏi: “Có gì đặc biệt đối với việc gây tê không?”.
     “Vâng, không có vấn đề gì, ngoại trừ việc bệnh nhân mất khả năng nói. - Bác sĩ gây mê trả lời. 
     Sau một hồi suy nghĩ, bác sĩ phẫu thuật nói: “Như vậy là chúng ta sẽ khó theo dõi chức năng  thần kinh của anh ấy”. 
     “Tôi sẽ để anh ấy ra hiệu bằng tay”. - Bác sĩ gây mê đồng ý. 
     Bác sĩ phẫu thuật trả lời: “Vậy là chúng ta cần nới đôi tay cho anh ấy”. Cả ê kíp đồng ý,  sau đó họ để lỏng tay bệnh nhân, nhưng vẫn chú ý không cho bệnh nhận đụng chạm vào xung  quanh cũng như dưới tấm phủ. 
     Bác sĩ gây mê lại nói tiếp: “Tôi cũng lo khi số người trong phòng nhiều, tiếng ồn và bước  chân đi lại sẽ ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của bệnh nhân”. 
     “Vậy thì chúng ta cần giữ im lặng”. - Bác sĩ phẫu thuật đáp. Thế là vấn đề đã được giải  quyết. 
     Chưa có một nghiên cứu nào trong số các nghiên cứu trên là hoàn thiện đủ để chứng  minh rằng một danh mục kiểm tra dùng trong phẫu thuật có thể tạo ra thứ mà WHO đang tìm kiếm,  mà về cơ bản nó cần phải – có thể đo được, không tốn nhiều chi phí và làm giảm thiểu các biến  chứng do phẫu thuật gây ra. Vào cuối buổi hội thảo tại Geneva, chúng tôi đã nhất trí đưa ra một  danh mục kiểm tra an toàn trong phẫu thuật để thử nghiệm trên quy mô lớn hơn. 
     Nhóm nghiên cứu này lấy các danh mục kiểm tra đã được thử nghiệm, sau đó chỉnh sửa và  cô đọng chúng lại thành một. Trong đó, nó có ba “điểm tạm ngưng”, tức là ba thời điểm ê kíp phải  ngưng lại để thực hiện các bước kiểm tra. Đó là lúc trước khi gây mê bệnh nhân, sau khi gây mê  bệnh nhân nhưng trước lúc bắt đầu mổ và vào cuối ca mổ, trước khi đẩy bệnh nhân ra khỏi phòng  phẫu thuật. Các thành viên trong nhóm nghiên cứu chia các ô kiểm tra theo những vấn đề liên quan  đến dị ứng, thuốc kháng sinh, dụng cụ gây mê,… cho ba thời điểm nói trên. Họ bổ sung vào danh  mục kiểm tra những gì họ nghĩ là nó có thể giúp cải thiện việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân.  Họ còn kết hợp chặt chẽ với mục thảo luận nhằm đảm bảo các thành viên trong ê kíp mổ đều biết  tên lẫn nhau cũng như có cơ hội để kiểm tra lại các kế hoạch quan trọng và những quan tâm của họ trong ca mổ. 
     Chúng tôi quyết định đưa danh mục kiểm tra này vào thử nghiệm ở những bệnh viện lớn  trên thế giới mà WHO cam kết sẽ hỗ trợ chi phí. Tôi hồi hộp chờ đợi và lạc quan về sự thành công  của danh mục này. Trở về Boston, tôi nhanh chóng đưa nó vào thử nghiệm. Tôi in nó ra và đưa  vào phòng mổ, tôi giải thích với các y tá, bác sĩ gây mê những gì lĩnh hội được ở Geneva. 
     “Chúng ta sẽ thử nghiệm với danh mục kiểm tra này nhé?” - Tôi nói với họ. Danh mục  kiểm tra này đã giải thích rõ tất cả các bước từ việc kiểm tra dụng cụ, đến việc sử dụng kháng  sinh, và cả những cuộc thảo luận có thể sẽ cần đến trong quá trình phẫu thuật. Mọi người trong ê  kíp nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, nhưng họ vẫn làm theo, vì họ biết đây không phải là lần đầu tiên tôi  đưa ra một ý kiến khác thường. 
     Tôi đưa danh mục kiểm tra cho Dee - cô y tá tuần hoàn, và bảo cô ấy kiểm tra phần đầu  tiên cùng với mọi người vào thời điểm thích hợp. Mười lăm phút sau, khi chúng tôi chuẩn bị gây  mê toàn thân cho bệnh nhân, tôi hỏi lại: “Thế còn danh mục kiểm tra thì sao?”.
     “Tôi đã làm xong rồi”. - Dee trả lời, và đưa cho tôi xem. Tất cả các ô đều đã được đánh  dấu. 
     “Ồ, không! Nó phải được kiểm tra bằng miệng, nghĩa là mọi người cùng nhau kiểm tra”. - Tôi nói. 
     Dee hỏi: “Có chỗ nào nói vậy đâu?”. Tôi xem lại, và đúng là như vậy. Chẳng có chỗ nào  yêu cầu như thế cả. 
     Tôi nói: “Dù sao thì mọi người cũng cứ thử thảo luận với nhau đi”. 
     Dee nhún vai và bắt đầu kiểm tra từng mục trong danh sách, nhưng có một số mục không  rõ ràng. Ví dụ, nhiệm vụ của cô ấy là phải xác nhận rằng mọi người đều biết bệnh nhân dị ứng cái  gì hay cô ấy chỉ cần nêu lên các chứng dị ứng ấy? Sau vài phút lúng túng với danh mục, mọi  người bắt đầu nổi cáu lên, bệnh nhân bắt đầu thấy lo lắng hơn. 
Bệnh nhân hỏi: “Mọi chuyện vẫn ổn đấy chứ?”. 
     “Ồ, vâng! Chỉ là chúng tôi đang kiểm tra danh mục của mình thôi. Xin bác đừng lo”. - Tôi đáp.  
     Nhưng chính bản thân tôi cũng mất kiên nhẫn với bản danh mục quá dài, lại không rõ ràng.  Và mỗi khi chuyển qua một mục mới, mọi người đều cảm thấy bối rối. 
     Cuối ngày hôm đó, chúng tôi không sử dụng danh mục kiểm tra nữa, vì nó không đem đến  lợi ích, mà chỉ gây thêm rắc rối cho chúng tôi.